Showing posts with label CÔNG CỤ. Show all posts
Showing posts with label CÔNG CỤ. Show all posts

12 Nguyên Lý Quan Trọng Trong Nền Tảng Lý Thuyết Dow

Trong những ghi chép của người đầu tiên đề ra lý thuyết này, Charles. H. Dow, có rất nhiều điều chứng tỏ rằng tác giả không hề nghĩ lý thuyết của mình sẽ trở thành một công cụ dùng cho dự báo thị trường chứng khoán hay thậm chí nó đã trở thành một hướng dẫn chung cho các nhà đầu tư. Những ghi chép ấy chỉ nói lên rằng, ông muốn lý thuyết của mình sẽ trở thành một thước đo biến động chung của thị trường. Dow thành lập công ty “Dịch vụ thông tin tài chính Dow-Jones” và được mọi người biết đến với việc tìm ra chỉ số bình quân thị trường chứng khoán. Những nguyên lý căn bản của học thuyết (ngày nay được đặt theo tên ông) đã được ông phác thảo ra trong một bài nghiên cứu mà ông viết cho “Tạp Chí Phố Wall”. Sau khi Dow mất, năm 1902, người kế tục ông làm biên tập cho tờ nhật báo, William. P. Hamilton, đã tiếp tục việc nghiên cứu lý thuyết này. Sau 27 năm nghiến cứu và viết các bài báo, ông đã tổ chức và cấu trúc lại thành Lý thuyết Dow như ngày nay.

Tìm hiểu về lý thuyết của Dow, trước tiên ta phải nghiên cứu đến chỉ số trung bình của thị trường. Nhìn chung giá chứng khoán của tất cả các công ty đều cùng lên và xuống. Tuy nhiên, một số cổ phiếu lại chuyển động theo hướng ngược lại xu thế chung của các cổ phiếu khác, cho dù là chỉ trong vài ngày hoặc vài tuần. Thực tế cho thấy khi thị trường lên giá thì giá của một số chứng khoán tăng nhanh hơn những chứng khoán khác, còn khi thị trường xuống giá thì một số chứng khoán giảm giá nhanh chóng trong khi có một số khác lại tăng lên, nhưng thực tế vẫn chứng minh rằng hầu như tất cả các chứng khoán đều dao động theo cùng một xu thế chung.

Cùng với những cố gắng nghiên cứu của mình, Charles Dow là người đã đưa ra khái niệm về “chỉ số giá bình quân” nhằm phản ánh xu thế chung của một số cổ phiếu đại diện cho thị trường. Hai loại chỉ số bình quân Dow-Jones được hình thành vào năm 1897 và vẫn còn cho đến cho đến ngày nay được Dow tìm ra và áp dụng trong các nghiên cứu của ông về xu thế chung của thị trường. Một trong hai loại chỉ số ấy là chỉ số của 20 công ty hỏa xa, loại còn lại gọi là chỉ số bình quân công nghiệp Dow Jones thuộc các ngành khác bao gồm 12 công ty mạnh nhất vào thời kỳ đó. Con số này tăng lên 20 công ty vào năm 1916 và đến 1928 là 30 công ty.

Khi nghiên cứu lý thuyết Dow có 12 nguyên lý quan trọng cần chú ý sau:

1. Chỉ số bình quân thị trường phản ánh tất cả (trừ hành động của Chúa)

Bởi vì nó phản ánh những hoạt động có liên kết với nhau của hàng nghìn nhà đầu tư, gồm cả những người có kinh nghiệm dự đoán thị trường giỏi nhất, có những thông tin tốt nhất về xu hướng và các sự kiện, những gì có thể nhận thấy trước và tất cả những gì có thể ảnh hưởng đến cung và cầu của các loại chứng khoán. Thậm chí cả những thiên tai hay thảm họa không dự tính được thì ngay khi xảy ra, chúng đã được thị trường phản ánh ngay vào giá của các loại chứng khoán. 

2. Ba xu thế của thị trường

Thuật ngữ thị trường nhằm chỉ giá chứng khoán nói chung, dao động của thị trường tạo thành các xu thế giá, trong đó quan trọng nhất là các xu thế cấp 1 (xu thế chính hay xu thế cơ bản). Đây là những biến động tăng hoặc giảm với quy mô lớn, thường kéo dài trong một hoặc nhiều năm và gây ra sự tăng hay giảm đến 20% giá của các cổ phiếu. Chuyển động theo xu thế cấp 1 sẽ bị ngắt quãng bởi các bởi sự xen vào của các dao động cấp 2 theo hướng đối nghịch - gọi là những phản ứng hay điều chỉnh của thị trường. Những biến động này xuất hiện khi xu hướng cấp 1 tạm thời vượt quá mức độ hiện tại của bản thân nó (gọi chung các biến động này là các biến động trung gian - biến động cấp 2). Những biến động cấp 2 bao gồm những biến động giá nhỏ hay gọi là những biến động hàng ngày và không có ý nghĩa quan trọng trong Lý thuyết Dow.

3. Xu thế cấp 1

Như đã nói đến ở phần trước, xu thế cấp 1 là những chuyển động lớn của giá, bao hàm cả thị trường, thường kéo dài hơn 1 năm và có thể là trong vài năm. Nếu như mỗi đợt tăng giá liên tiếp đều đạt đến mức cao hơn mức trước đó và mỗi điều chỉnh cấp 2 đều dừng lại ở mức đáy cao hơn mức đáy của lần điều chỉnh trước thì xu thế cấp 1 lúc này là tăng giá - thị trường lúc này là thị trường con bò tót - thị trường tăng giá (Bull Market) Còn ngược lại nếu mỗi biến động giảm đều làm cho giá xuống những mức thấp hơn còn mỗi điều chỉnh đều không đủ mạnh để làm cho giá tăng lên đến mức đỉnh của những đợt tăng giá trước đó thì xu thế cấp 1 của thị trường lúc này là giảm giá, thị trường được gọi là thị trường con gấu - thị trường giảm giá (Bear Market).

Thông thường, về lý thuyết thì xu thế cấp 1 chỉ là một trong 3 loại xu thế mà một nhà đầu tư dài hạn quan tâm. Mục đích của nhà đầu tư đó là mua chứng khoán càng sớm càng tốt trong một thị trường lên giá, sớm đến mức anh ta có thể chắc chắn rằng mới có duy nhất mình anh ta bắt đầu mua và sau đó nắm giữ đến khi và chỉ khi Bull Market đã thực sự kết thúc và bắt đầu Bear Market. Nhà đầu tư hiểu rằng họ có thể bỏ qua một cách an toàn tất cả những sự xen vào của các điều chỉnh cấp 2 và các dao động nhỏ vì họ đầu tư dài hạn theo xu thế chính của thị trường. Tuy nhiên với một kinh doanh chứng khoán ngắn hạn thì những biến động của xu thế cấp 2 lại có vai trò quan trọng bởi họ kiếm lợi nhuận dựa trên những biến động ngắn hạn của thị trường

4. XU THẾ CẤP 2

Xu thế cấp 2 là những điều chỉnh có tác động làm gián đoạn quá trình vận động của giá theo xu thế cấp 1. Chúng là những đợt suy giảm tạm thời (trung gian) hay còn gọi là những điều chỉnh xuất hiện ở các Bull Market; hoặc những đợt tăng giá hay còn gọi là hồi phục xuất hiện ở các Bear Market. Thường thì những biến động trung gian này kéo dài từ 3 tuần đến nhiều tháng. Chúng sẽ kéo ngược lại khoảng 1/3 đến 2/3 mức tăng (hay giảm tùy loại thị trường) của giá theo xu thế cấp 1. Do đó, chẳng hạn trong Bull Market, nếu chỉ số giá bình quân công nghiệp tăng liên tục ổn định hoặc có gián đoạn rất nhỏ và mức tăng đạt đến 30 điểm, khi đó xuất hiện xu thế điều chỉnh cấp 2, thì người ta có thể trông đợi xu thế điều chỉnh này có thể làm giảm từ 10 đến 20 điểm cho đến khi thị trường lặp lại xu thế tăng cấp 1 ban đầu của nó.

Dẫu sao cũng cần lưu ý là qui tắc giảm 1/3 đến 2/3 không phải là một luật lệ không thể phá vỡ mà nó đơn giản chỉ là một nhận xét về khả năng có thể xảy ra mà hầu hết các biến động cấp 2 đều bị giới hạn trong mức này. Rất nhiều trong số đó ngừng tác động ở điểm gần với mức 50% mà rất hiếm khi đạt đến mức 1/3. Như vậy có 2 tiêu chí để nhận định một xu thế cấp 2: Tất cả những chuyển động của giá ngược hướng với xu thế cấp 1 kéo dài ít nhất 3 tuần và kéo hoàn lại ít nhất 1/3 mức biến động thức của xu thế cấp 1 (tính từ điểm kết thúc biến động cấp 2 trước đó đến biến động cấp 2 này, bỏ qua những dao động nhỏ) thì được coi là thuộc loại trung gian hay còn gọi là biến động cấp 2. Mặc dù đã có những tiêu chí để xác định một xu thế cấp 2 nhưng vẫn có những khó khăn trong việc xác định thời điểm hình thành và thời gian tồn tại của xu thế.

5. Xu thế nhỏ (Minor)

Đây là những dao động trong thời gian ngắn (dài tối đa 3 tuần, hường chỉ dưới 6 ngày) mà theo như thuyết Dow đã nói đến, bản thân chúng không thực sự có ý nghĩa nhưng chúng góp phần tạo nên các xu thế trung gian. Thông thường thì một biến động trung gian dù là một xu thế cấp 2 hay là một phần của xu thế cấp 1 xen giữa hai xu thế cấp 2 liên tiếp, đều được tạo thành từ một dãy gồm 3 hoặc nhiều hơn những dao động nhỏ khác nhau. Xu thế nhỏ là dạng duy nhất trong 3 loại xu thế có thể bị “lôi kéo” (bị tác động). Để tác động vào xu thế cấp 1 và 2 thì cần những giao dịch với khối lượng rất lớn và điều này hầu như là không thể.

Để làm rõ khái niệm về 3 xu thế của thị trường, ta có thể so sánh với biến động của sóng biển với một số điểm giống nhau như sau:

Xu thế cấp 1 trong giá chứng khoán giống như những đợt thủy triều lên hoặc xuống. Có thể so sánh thị trường lên giá (Bull Market) với thủy triều lên. Thủy triều dâng nước lên bờ biển ngày càng xa vào sâu trong bờ và đến đỉnh của thủy triều thì lại quay ngược trở về biển. Khi thủy triều rút lại được so sánh với thị trường xuống giá (Bear Market). Và cho dù trong lúc thủy triều lên hay xuống thì luôn có những con sóng đập vào bờ rồi lại lùi lại về biển. Khi thủy triều lên mỗi con sóng liên tiếp nhau vào bờ, sóng sau vào sâu hơn sóng trước lại góp phần làm thuỷ triều vào xa hơn trong bờ, nhưng khi thủy triều xuống mỗi con sóng không mang nước ra xa bờ mà nước giảm xuống là do sóng sau vào đến bờ ở mức thấp hơn (tụt lại hơn) so với đỉnh của sóng trước, mỗi con sóng do đó sẽ trả lại dần dần bờ biển như trước khi thủy triều lên. Những con sóng này là các xu thế trung gian, có thể cấp1 hoặc cấp 2 tùy thuộc hướng chuyển động của nó so với hướng của thủy triều vào thời điểm xảy ra xu thế đó. 

Mặt biển cũng luôn luôn biến động với những gợn sóng nhấp nhô chuyển động cùng chiều, ngược chiều hoặc chuyển động ngang so với hướng của những con sóng lớn - những gợn sóng này biểu hiện cho các xu thế nhỏ (những dao động hàng ngày có vai trò không quan trọng như đã nói ở phần trên). Những đợt thủy triều, những con sóng và những gợn sóng nhỏ chính là những hình ảnh so sánh giống nhất đối với những biến giá của một thị trường. Trong những phần sau ta sẽ còn xem xét đến một lý thuyết khác về thị trường gọi là Lý thuyết Sóng Elliott, trong đó mọi biến động của thị trường đều gắn trực tiếp với các con sóng.

6. Bull Market (thị trường con bò tót - thị trường tăng giá)

Một xu thế tăng giá cơ bản thường bao gồm 3 thời kì.

Thời kì đầu tiên là quá trình “tích tụ”, trong quá trình này, những nhà đầu tư có tầm nhìn xa sẽ tiến hành xem xét các doanh nghiệp, có thể vào thời kì này doanh nghiệp đang suy thoái nhưng nhà đầu tư nhận thấy khả năng doanh ngiệp có thể chuyển biến tình hình thành tăng trưởng nhanh chóng, có thể giá cổ phiếu của nó sẽ tăng trong thời gian tới. Đây cũng là thời điểm mà cổ phiếu này đang được chào bán rất nhiều bởi những nhà đầu tư đang có tâm lý rất chán nản và lo lắng về tình trạng của những cổ phiếu của họ và để nhằm tăng dần giá chào bán của họ khi thị trường xuất hiện sự suy giảm trong khối lượng giao dịch. Các bản báo cáo tài chính của doanh nghiệp đó có thể không tốt thậm chí rất tồi. Công chúng hoàn toàn cảm thấy thất vọng khi tham gia vào thị trường chứng khoán bởi họ thấy lượng tiền đã đầu tư của họ đang giảm giá trị nhanh chóng và có nguy cơ còn giảm nữa, vì vậy mà họ muốn thoát ra khỏi thị trường. Tuy nhiên có thể nhận thấy một điều vào cuối giai đoạn thứ nhất này là trong hoạt động của công ty và trong những biến động trên thị trường đã có những biến chuyển tuy mới chỉ ở mức hạn chế, bắt đầu xuất hiện những đợt tăng giá nhỏ.

Thời kỳ thứ 2 là thời kỳ của sự tăng trưởng khá vững chắc. Họat động của doanh ngiệp đang theo dõi gia tăng mạnh cùng với những khởi sắc trong nội bộ doanh nghiệp và doanh thu của nó cũng tăng dần và bắt đầu thu hút các mối quan tâm trên thị trường. Đây chính là thời kì mang lại nhiều lợi nhuận cho các nhà kinh doanh chứng khoán theo trường phái Phân tích kỹ thuật.

Cuối cùng là thời kì thứ 3, trong thời kì này thị trường sôi sục với những biến động của nó. Công chúng rất háo hức với từng biến động của thị trường. Tất cả các thông tin tài chính của doanh nghiệp đưa ra đều rất tốt, giá chứng khoán tăng cao ngoài sức tưởng tượng và đang là những vấn đề nóng hổi được đưa lên trang đầu của các tờ báo ra hàng ngày. Đến thời điểm sau khoảng hai năm tính từ lúc thị trường bắt đầu đi lên, những người ít kinh nghiệm có thể mới cho rằng thị trường lúc này mới chắc chắn cho lợi nhuận của họ và muốn tham gia vào thị trường. Nhưng thực sự thì sau hai năm, giá đã tăng khá cao, câu hỏi nên đặt ra vào lúc này là “nên bán cổ phiếu nào? ” chứ không còn là “nên mua cổ phiếu nào ? ” nữa. Vào cuối thời kì thứ 3, người ta có thể thấy nạn đầu cơ tràn lan, khối lượng giao dịch vẫn tiếp tục tăng nhưng “air-pocket-stock”* xuất hiện ngày càng nhiều, số lượng cổ phiếu có giá thấp nhưng không có giá trị đầu tư cũng gia tăng và cả những đợt phát hành trái phiếu cũng ít dần đi.

(* Air-pocket-stock là những cổ phiếu đột ngột giám giá mạnh một cách bất thường - có thể là do nhà đầu tư bán ồ ạt do một tin đồn xấu. Lý do dùng khái niệm này là vì nó được so sánh với việc máy bay đột ngột mất độ cao, ngoài khả năng kiểm soát khi gặp air-poket là những dòng khí hướng xuống, tác động làm mất chiều cao máy bay)

7. Bear Market (Thị trường con gấu - thị trường giảm giá)

Xu thế giảm giá của thị trường cũng được chia thành ba thời kỳ.

Thời kỳ đầu tiên là thời kỳ “phân bổ” (thời kỳ này thực sự bắt đầu ở giai đoạn cuối của Bull Market trước đó). Trong thời kỳ này những nhà đầu tư có tầm nhìn xa đều nhận thấy rằng doanh thu (và các chỉ số kinh doanh nói chung) của những công ty mà họ đang nắm giữ cổ phiếu đều đang đạt mức cao không bình thường và họ muốn nhanh chóng thoát khỏi vị thế sở hữu cổ phiếu của những công ty này. Khối lượng giao dịch vẫn rất cao mặc dù đã có những dấu hiệu của xu hướng giảm, công chúng vẫn rất “năng động” nhưng cũng bắt đầu có dấu hiệu lo lắng và cũng không còn nhiều kỳ vọng kiếm lợi nhuận.

Thời kỳ thứ hai được gọi là thời kỳ "hỗn loạn". Số lượng người mua bắt đầu giảm dần và những người bán bắt đầu trở lên vội vã bán đi những cổ phiếu mình đang nắm giữ. Xu thế giảm giá bắt đầu tăng mạnh làm đồ thị giá gần như dốc thẳng xuống và khối lượng giao dịch đạt đến mức đỉnh điểm. Giai đoạn này được gọi là hỗn loạn vì sự sụt giảm thường xảy ra rất trầm trọng thậm chí là thái quá với mức độ vượt quá cả thực trạng của các doanh nghiệp. Sau giai đoạn hỗn loạn có thể có giai đoạn hồi phục (một dạng xu thế cấp hai) hoặc một giai đoạn dao động ngang của đồ thị thị trường (các dao động không có hướng đi lên hay đi xuống mà là dao động trong một khoảng cố định theo chiều ngang của thị trường) trong một thời gian tương đối dài. Giai đoạn này thể hiện tâm lý chán nản của một bộ phận nhà đầu tư, họ cũng chính là những người đã cố gắng nắm giữ cổ phiếu qua thời kỳ hỗn loạn trước đó hoặc cũng có thể là những người đã mua cổ phiếu trong thời kỳ đó bởi vì lúc đó giá của cổ phiếu rõ ràng là rẻ hơn rất nhiều so với trước đó vài tháng. Thông tin về các doanh nghiệp ngày càng xấu đi. Kết thúc giai đoạn này mới bước vào thời kỳ thứ ba.

Vào thời kỳ thứ ba, xu thế đi xuống trên thị trường đã yếu dần, nhưng lại được duy trì bởi những lệnh bán nhiều và liên tục thể hiện “nỗi buồn” và sự lo lắng của những nhà đầu tư đang rất cần tiền cho những nhu cầu riêng của họ. Các cổ phiếu đều giảm đến mức thấp nhất, thậm chí gần như mất hoàn toàn giá trị. Những cổ phiếu có chất lượng cao hầu như không được giao dịch vì những người sở hữu chúng đều muốn nắm giữ đến cùng. Ở giai đoạn cuối của Bear Market, như một kết quả của toàn bộ thời kỳ giảm giá trước, cả thị trường chỉ tập trung vào giao dịch một số loại cổ phiếu. Bear Market kết thúc tất cả với những tin xấu về các doanh nghiệp, về thị trường ở mức có thể coi là tồi tệ nhất đã thể hiện ra và có thể đến

8. Hai đường chỉ số bình quân của thị trường phải cùng xác nhận xu thế của thị trường.

Đây là câu hỏi thường xuyên đặt ra nhất và cũng khó giải thích nhất đối với hệ thống các nguyên lý của lý thuyết Dow. Tuy nhiên từ khi được đưa ra cho đến nay nó đã được thời gian chứng minh tính đúng đắn và nó vẫn được vận dụng cho đến ngày nay và bất kì một ai đã xem xét những số liệu ghi lại thì đều không thể có ý kiến phản đối với nguyên lý này. Còn với những người ít quan tâm hay bỏ qua nguyên lý này thì trong thực tế kinh doanh đã và sẽ phải nhiều lần cảm thấy tiếc nuối. Điều nguyên lý này muốn nói đến là không thể có một dấu hiệu chính xác nào về sự thay đổi xu thế thị trường có thể được khẳng định chỉ thông qua xem xét biến động của duy nhất một loại chỉ số bình quân (ở đây muốn nói đến những thị trường bao gồm nhiều chỉ số bình quân, chẳng hạn như ở Mỹ, như nói ở phần đầu, có hai loại chỉ số bình quân).

 

  • Chỉ số bình quân bên dưới chỉ ra thị trường đi xuống
  • Chỉ số bình quân phía trên chỉ ra thị trường đi lên

Như vậy thị trường sẽ vẫn đi xuống do cả hai không cùng xác nhận một sự đảo chiều trong xu thế hiện tại của thị trường.

Chỉ khi nào cả chỉ số bình quân cũng chỉ ra là thị trường đang có xu thế đi lên thì ta mới có cơ sở xác nhận một dấu hiệu về sự đổi chiều của xu thế chính. Trong hình vẽ trên, trừ khi có một biến động nào khác nếu không chỉ duy nhất chỉ số bình quân bên dưới sẽ không để chuyển hướng chung của thị trường mà thậm chí còn bị kéo xuống. Xu thế cấp 1 của thị trường rõ ràng vẫn chưa rõ ràng. Đây là một ví dụ áp dụng nguyên lý về sự xác nhận. Không cần thiết cả hai chỉ số bình quân phải cùng xác nhận vào 1 ngày. Thường thì cả hai chỉ số này sẽ cùng chuyển động đến cùng một khoảng đỉnh hoặc đáy mới, nhưng có nhiều trường hợp mà một trong hai chỉ số sẽ trễ hơn chỉ số kia vài ngày, vài tuần, thậm chí là một đến hai tháng. Trong những tình huống như vậy thì nhà đầu tư phải giữ kiên nhẫn và đợi cho đến khi thị trường thật sự thể hiện ra bản chất xu hướng của nó.

9. Khối lượng giao dịch áp dụng kèm với xu thế thị trường.

Điều này thể hiện một thực tế là khi giá biến động theo đúng xu thế cấp 1 thì các họat động kinh doanh trên có xu hướng mở rộng hơn. Do vậy, với Bull Market, khối lượng giao dịch sẽ tăng nếu giá tăng, và sẽ thu lại nếu giá giảm; với Bear Market giá trị giao dịch sẽ tăng nếu giá giảm và ít khi giá có dấu hiệu phục hồi. Điều này vẫn đúng ở mức độ thấp hơn tức là với những xu thế cấp 2, đặc biệt là trong giai đoạn đầu của một xu thế hồi phục cấp 2 trong một Bear Market, khi mà các diễn biến của thị trường chỉ ra rằng giá sé tăng lên theo một số đợt tăng giá nhỏ, còn các biến động kéo giá xuống giảm đi.

Các kết luận ở đây thường không có giá trị nếu chỉ dựa trên diễn biến trong vài ngày và càng không có giá trị với những kết luận dựa trên một phiên giao dịch đơn lẻ. Nguyên lý này chỉ phát huy hiệu quả nếu dựa trên những diễn biến của khối lượng giao dịch chung trong thời gian giao dịch tương đối dài. Hơn nữa, theo Lý thuyết Dow thì chỉ dựa trên những phân tích về giá mới có thể đưa ra được những dấu hiệu mang tính quyết định về xu thế thị trường, còn khối lượng giao dịch chỉ có thể cung cấp thêm những chứng cứ phụ để giải thích rõ hơn biến động của thị trường và sử dụng vào những tình huống khi dấu hiệu chính tỏ ra còn nhiều nghi ngờ. 

10. Đường ngang có thể thay thế cho các xu thế cấp 2.

Đường ngang theo định nghĩa của Lý thuyết Dow là những chuyển động ngang có tính chất trung gian của thị trường phản ánh thời kỳ mà giá biến động rất ít (với thị trường Mĩ là nhỏ hơn hoặc bằng 5%). Đường ngang thường kéo dài từ 2 đến 3 tuần hoặc đôi khi là lâu hơn (trong vài tháng). Khi thị trường xuất hiện mô hình dạng đường ngang, điều này chỉ ra rằng áp lực của cung và cầu trên thị trường là tương đối cân bằng.

Thực tế trong giai đoạn này các lệnh đặt mua hoặc bán đều thể hiện một sự kiệt sức. Những người muốn mua cổ phiếu thì phải tăng mức giá chào mua để khuyến khích người có cổ phiếu mà họ muốn bán cho họ, còn những người muốn bán thì với thị trường có biến động dạng đường ngang họ thấy rằng số lượng người mua đang ít dần và kết quả là họ phải giảm giá để có thể bán được những cổ phiếu của mình. Do vậy một mức giá dao động vượt ra ngoài mức dao động của mô hình đường ngang đang xuất hiện trên thị trường sẽ là một dấu hiệu rõ ràng cho một thị trường lên hoặc xuống giá tùy thuộc vào hướng của dao động vượt ra ngoài. Nhìn chung mô hình đường ngang càng kéo dài lâu và biên độ dao động càng nhỏ thì ý nghĩa của dao động vượt ra ngoài mô hình đường ngang càng lớn.

Mô hình đường ngang thường diễn ra dài vừa đủ để khoảng thời gian tồn tại của nó mang một ý nghĩa quan trọng đối với những người phân tích thị trường theo trường phái Dow. Những biến động vượt ra ngoài mô hình đường ngang có thể là dấu hiệu cho thấy mô hình này chính là những mức đỉnh hoặc đáy rất quan trọng của thị trường bởi nếu là đỉnh thì đó chính là giai đoạn “phân bổ” - giai đoạn ban đầu của một Bear Market; còn nếu dấu hiệu cho thấy nó có thể là mức đáy của thị trường thì đây là giai đoạn “tích tụ” - giai đoạn đầu của một Bull Market. Thông thường nhất, nó đóng vai trò như một thời kỳ yên tĩnh thuộc giai đoạn cuối cùng trong quá trình hình thành hoặc thuộc giai đoạn củng cố xu thế cấp 1 của thị trường. Trong những trường hợp đó mô hình này đóng vai trò như những sóng cấp 2. Mức biến động 5% cũng hoàn toàn chỉ là một mức biên độ được xác định theo kinh nghiệm bởi trên thực tế rằng mô hình đường ngang có rất nhiều điểm tương đồng với mô hình cũng có nhiều biến động ngang với biên độ lớn hơn nhưng hai biên của nó vẫn được xác định khá rõ ràng và tương đối chuẩn nên cũng được tính là một loại mô hình đường ngang.

11. Chỉ sử dụng mức giá đóng cửa để nghiên cứu.

Lý thuyết Dow không quan tâm và ít đề cao đến các mức biến động giá (thậm chí là cả mức giá cao nhất và thấp nhất) trong ngày mà chỉ quan tâm đến những số liệu cuối ngày giao dịch, chẳng hạn như mức bình quân giá bán cuối cung trong ngày.

Xem xét một thị trường với xu thế cơ bản là tăng giá và đang ở thời điểm giá tăng và đạt mức đỉnh của ngày hôm đó vào 11 giờ sáng, giả sử lúc đó chỉ số bình quân đang là 152.45 sau đó lại giảm xuống mức giá đóng cửa là 150.70. Để có thể xác nhận thị trường vẫn đang trong xu thế cơ bản là tăng giá thì ở đợt tăng giá tiếp theo mức giá đóng cửa phải cao hơn 150.70. Trong trường hợp này mức đỉnh 152.45 không được quan tâm đến. Trái lại nếu ở đợt thứ 2, dù giá có đạt đến mức đỉnh ở 152.60 nhưng giá đóng cửa lại nhỏ hơn 150.70 thì hoàn toàn có cơ sở để nghi ngờ liệu xu thế tăng giá hiện tại có còn tiếp tục hay không.

Trong những nắm gần đây, nhiều ý kiến đã được đưa ra xung quanh vấn đề liệu chỉ số giá bình quân phải tăng thêm hay giảm đi bao nhiêu so với giới hạn đạt được của đợt dao động giá trước (đỉnh hoặc đáy) để có thể báo hiệu (xác nhận một xu thế mới hoặc xác nhận lại xu thế hiện tại) xu thế thị trường. Dow và Hamilton luôn rất cẩn thận trong việc xem xét bất cứ một dao động nhỏ nào xen vào xu thế hiện tại làm giá thay đổi thậm chí đến 0. 01 và hai ông đều cho rằng dấu hiệu đó hoàn toàn có thể là một dấu hiệt đúng. Nhưng ngày nay nhiều nhà phân tích cho rằng mức thay đổi đó phải đạt ít nhất 1.00 mới có thể được coi là một dấu hiệu của thị trường.

12. Một xu thế cần được giả định rằng vẫn đang tiếp tục cho đến khi có một dấu hiệu thực sự về sự đảo chiều của xu thế đó được xác định.

Nguyên lý này là một trong những nguyên lý có nhiều ý kiến tranh cãi nhất. Nhưng khi được hiểu chính xác nó vẫn có giá trị rất lớn trong phân tích thị trường. Nguyên lý thứ mười hai giúp đề phòng với những thay đổi (phản ứng) quá sớm trong quan điểm về thị trường, theo như chúng ta hay nói là “cầm đèn chạy trước ô tô”, của bất kì nhà đầu tư nào. Điều này không nhằm làm nhà đầu tư trì hoãn hành động của mình lại một cách không cần thiết, cho dù là chỉ một phút, khi những dấu hiệu về sự thay đổi của xu thế thị trường là đã rõ ràng, nhưng nó nhắc nhở một điều rằng lợi thế sẽ nghiêng về phía những người biết chờ đợi cho đến khi họ chắc chắn về tình hình thị trường và rõ ràng sẽ không nghiêng về những người quá nôn nóng với hành động của họ. Khả năng xảy không thể được phát hiện một cách rõ ràng bởi bản chất của nó là những biến động thực tế của thị trường và chúng thay đổi thường xuyên. Bull Market không thể lên giá mãi và Bear Market thì sớm muộn cũng đạt đến đáy của nó. Khi một xu thế cấp 1 của thị trường vừa mới được hình thành thì cho dù có những dao động trong ngắn hạn ta vẫn có thể chắc chắn rằng nó không thay đổi, nhưng nếu nó kéo dài càng lâu thì mức chắc chắn càng ít dần đi, các điểm tái xác nhận xu thế thị trường cũng có giá trị ít dần đi. Động lực của người mua và khả năng bán được những cổ phiếu với giá cao hơn giá mua để kiếm lời sẽ ngày càng thấp nếu như Bull Market đã tồn tại trong nhiều tháng và rõ ràng là thấp hơn khi nó mới hình thành. 

Một hệ quả tất yếu từ nguyên lý này đó là khi đã có những dấu hiệu về sự thay đổi của xu thế thị trường thì sự thay đổi đó có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Vì vậy bất cứ nhà đầu tư nào cũng cần phải theo dõi thị trường một cách thường xuyên.

Share:

CÁC LỖI THƯỜNG GẶP TRONG GIAO DỊCH






Kết quả hình ảnh cho tâm lý giao dịch

Trong trading, các suy nghĩ cùng tâm lý cũng có thể tạo nên sự thành bại của một trader.

Các bạn có tìm thấy chính mình khi đọc các lỗi trading dưới đây không?

1.  Không xác định được rủi ro giao dịch và mức lỗ trước khi trade (muốn giữ tỷ lệ thắng 100%?)

2. Không đóng lệnh thua mà để lệnh chạy free và cầu nguyện hy vọng thị trường trở lại. (Against the market)

3. Không có back-up plan (plan-B) khi thị trường không đi theo dự đoán.

4. Quá tập trung vào tỷ giá của tất cả giao dịch mà bỏ qua tiềm năng của một thị trường nhất định. (dàn trải lệnh)

5. Trade để trả thù thị trường (Fear & Angry)

6. Trade không có cơ sở (trade cảm tính)

7. Không biết tại sao mình thua và không phân tích tìm ra nguyên nhân.

8. Trade với sàn B-BOOK.

Nguồn: sách Disciplined Trader - Mark Douglas
Share:

4 ĐIỀU CẦN LƯU Ý KHI LẬP KẾ HOẠCH THOÁT RA KHỎI THỊ TRƯỜNG GIAO DỊCH

Thương nhân có xu hướng tập trung rất nhiều thời gian và sức lực vào các mục nhập thương mại của họ ( giá mua hoặc bán). Trên thực tế, nếu bạn duyệt qua các cộng đồng và diễn đàn trực tuyến , bạn sẽ nhận thấy phần lớn các cuộc thảo luận thương mại xoay quanh các mục đấy.

Zalo
Nhưng trong khi rất quan trọng để biết làm thế nào và khi nào để tham gia một giao dịch, nó cũng rất quan trọng để biết khi nào nên thoát khỏi thị trường. Hầu hết mọi người đều có một kế hoạch chi tiết và đưa ra các quy tắc về cách thức tham gia vào thị trường, nhưng các trader mới thường bỏ qua tầm quan trọng của việc có một chiến lược rút lui.
"Bắt đầu với kết thúc trong tâm trí."
Ngay cả trước khi bạn tham gia một giao dịch, bạn nên đã có chiến lược rút lui cụ thể. Hãy tự hỏi mình những câu hỏi sau đây:
1. Bạn muốn chịu rủi ro bao nhiêu?
Tôi tin rằng quản lý rủi ro là một trong những khía cạnh quan trọng nhất của giao dịch. Để kiếm tiền (và tránh mất tiền), bạn phải học cách quản lý rủi ro của mình. Đó là cách bạn tách giữa một thương nhân ra khỏi những tay cờ bạc.
Bạn luôn luôn phải biết số tiền bạn đặt trên tài khoản của mình. Hãy chắc chắn rằng bạn chỉ có nguy cơ mất một số tiền mà bạn cảm thấy thoải mái nhất, không ảnh hưởng đến tài chính cá nhân nhất.
2. Bạn sẽ cắt giảm thiệt hại ở đâu?
Vị trí dừng lỗ( cắt lỗ) thích hợp có thể làm hoặc phá vỡ thương mại của bạn, do đó, nó là một cái gì đó bạn nên xem xét ngay cả trước khi bạn nhảy vào thị trường. Hãy chắc chắn rằng bạn đặt stop loss của bạn một cách hợp lý và cho thương mại của bạn đủ chỗ để hít thở, ý của tôi là biên độ dao động của thị trường đủ an toàn cho bạn tránh bị mất tiền.
.
3. Những sự kiện nào có thể làm mất hiệu lực thương mại của bạn?
Những sự kiện không lường trước luôn bật lên và chúng thường gây ra một sự biến động.
Tuy nhiên, có những điều mà chúng ta đã biết. Báo cáo kinh tế và bài phát biểu của các quan chức chính thường được lên kế hoạch trước thời hạn. Kết quả của chúng có khuynh hướng ảnh hưởng đến thị trường giống như những sự kiện không lường trước được. Vậy tại sao không chuẩn bị cho họ?
Luôn luôn biết sự đồng thuận của thị trường là gì và loại hành vi và phản ứng bạn nên lường trước. Thực hiện các kế hoạch dự phòng khi một sự kiện diễn ra khác so với dự kiến. Quan trọng nhất, hãy chuẩn bị để thực hiện các điều chỉnh thương mại của bạn khi cần thiết.
Ví dụ, các nguồn tin sự kiện FOMC, hoặc Non Farm của Mỹ luôn luôn làm thị trường biến động khôn lường
4. Bạn dự định tổ chức giao dịch trong bao lâu?
Ví dụ, các nhà kinh doanh dài hạn có thể nắm giữ các giao dịch trong nhiều tuần, vài tháng hoặc thậm chí nhiều năm. Thông thường, giao dịch của họ phụ thuộc nhiều hơn vào các yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến thị trường trong một khoảng thời gian dài hơn. Nhận thức được thời gian sẽ giúp một thương nhân xoay hoặc vị trí theo dõi các điều kiện thị trường.
Trong khi đó, các nhà kinh doanh ngắn hạn có thể hưởng lợi từ thực tiễn này trong việc giúp họ đánh giá liệu một ý tưởng thương mại có còn hiệu lực hay không. Có lẽ việc hợp nhất trên một cặp cụ thể đã diễn ra lâu hơn dự kiến ​​và tốt hơn là chỉ nên đóng cửa giao dịch sớm.
Như bạn thấy, thoát khỏi một thương mại cũng quan trọng như kéo sự kích hoạt, do đó, đặt cùng một lượng thời gian và phân tích vào nó.
Có một chiến lược rút lui chi tiết sẽ không chỉ giúp bạn tránh khỏi những quyết định giao dịch bốc đồng và giữ cho cảm xúc của mình được kiểm soát, nhưng nó có thể giúp bạn quản lý rủi ro và duy trì lợi nhuận trong thời gian dài.
Luôn luôn nhớ bắt đầu với sự kết thúc trong tâm trí.
Share:

5 SAI LẦM PHỔ BIẾN KHI GIAO DỊCH

Trước khi bạn mở một tài khoản forex trực tiếp, điều quan trọng là bạn phải làm quen với những sai lầm tinh thần phổ biến nhất mà các nhà kinh doanh mới tạo ra.

1. Tự tin quá

Thương mại để kiếm sống có thể là một giấc mơ trở thành sự thật, nhưng nó cũng có thể là một cơn ác mộng. Nếu bạn tin rằng giao dịch là dễ dàng, bạn luôn tự tin biết mọi thứ trước khi bạn bắt đầu. Giao dịch không đơn giản. Thương mại là khó khăn. Thực sự rất khó. Thật khó để luôn tập trung tinh thần và giữ kỷ luật .

2. Thiếu kiểm soát cảm xúc

lỗi forexTâm trí của bạn luôn luôn giả định tồi tệ hơn. Nó làm điều đó để bảo vệ bạn khỏi bị tổn hại. Bởi vì có một tiềm năng mà bạn sẽ mất tiền và tất cả những đau khổ tinh thần mang lại, tâm trí nói với bạn không làm một thương mại.
Bạn phải học làm thế nào để ghi đè lên cơ chế tự bảo vệ này nếu bạn muốn trở thành một thương nhân. Nói chuyện với tâm trí của bạn. Nói với bạn rằng bạn đang làm tốt với thương mại. Nhắc nhở nó rằng có một điểm cắt lỗ và bạn sẽ không bị tổn hại nếu mọi việc không theo như ý của bạn.
Hãy thuyết phục bạn rằng để kiếm tiền, bạn cần phải chấp nhận rủi ro và những rủi ro mà bạn đang thực hiện đã được lên kế hoạch và đo lường cẩn thận.

3. Tự lừa mình

Một khi bạn đang trong một thương mại không cố gắng và biện minh cho công việc của nó. Thị trường làm điều đó cho bạn. Kết quả cuối cùng của thương mại của bạn phải là một sự mất mát thua lỗ, kích thích, hoặc lợi nhuận.
Một khi thương mại được hoàn thành, không được sống trên nó, ngủ quên trên chiến thắng. Mỗi thương mại là khác nhau và những gì làm việc thời gian này có thể thất bại trong thời gian tới. Xem lại một cách ngắn gọn và tiếp tục thương mại.
4. Tiếc nuối, sợ bỏ lỡ cơ hội
Tập trung vào giao dịch tổng thể và không dành quá nhiều thời gian cho từng giao dịch cá nhân. Điều này sẽ làm cho bạn một nhà kinh doanh tuyệt vời. Chấp nhận kết quả của giao dịch của bạn, nhưng không chấp nhận không gắn bó với kế hoạch trò chơi của bạn.
Các nhà kinh doanh liên tục nhảy vào đúng vị trí vào đúng thời điểm vì họ sợ họ sẽ bỏ lỡ nó, đặc biệt là tại các điểm quay của thị trường.
Đừng ngại bỏ lỡ 25% đầu tiên của di chuyển; và thoát ra sau 75%. Bắt 50% di chuyển đã xác nhận sẽ mang lại kết quả tuyệt vời. Bạn cũng sẽ không phải đối phó với việc dừng lại và sau đó xem giá ngược lại và đi theo hướng của bạn.

5. Không suy nghĩ về xác suất

Trong giao dịch, bạn phải chấp nhận thua lỗ đó là lý do vì sao bạn phải luôn tính đến xác suất thua lỗ và lợi nhuận trước khi quyết định giao dịch.
Chúng ta chỉ nên giao dịch khi xác xuất thành công đạt 80% trở lên và phải chấp nhận cắt lỗ được tính toán trước thực hiện giao dịch
Share:

CHIẾN LƯỢC GIAO DỊCH THEO KHOẢNG GIÁ

Các nhà giao dịch mới chỉ bắt đầu hiểu cách thị trường biến động thường tập trung vào mô hình khoảng giá; một trong những mô hình giá phổ biến nhất trong phân tích kỹ thuật. Trong một khoảng giá, giá cả bứt lên từ một đường nằm ngang thấp hơn (đường hỗ trợ) và bứt xuống từ một đường nằm ngang cao hơn (đường kháng cự). Việc này tạo ra một biến động giá đi ngang hoặc “không có xu hướng”, rất hấp dẫn ngay cả đối với các nhà giao dịch cao cấp, bởi vì khi một nhà giao dịch xem xét khoảng giá dựa trên dữ liệu lịch sử hoặc trên giấy tờ, nó có vẻ là một cách rất dễ dàng để kiếm tiền.

Miễn là biến động giá đi ngang này duy trì ổn định, các nhà giao dịch có thể gia tăng lợi nhuận của mình bằng cách mua vào quanh vùng hỗ trợ và bán ra quanh vùng kháng cự.
Một nhà giao dịch giàu kinh nghiệm biết rằng việc giao dịch chỉ khi giá chạm các đường hỗ trợ và kháng cự là không đủ, trong phần lớn thời gian, việc xác nhận bổ sung là cần thiết. Trong trường hợp này, các mô hình nến đảo chiều có thể rất hiệu quả nhằm giúp xác nhận các biến động, và đó là điều mà các nhà giao dịch cao cấp sẽ chú ý sát sao đến.
Đây là một số ví dụ.

Mô hình nến búa

Là một mô hình nến đảo chiều tăng phổ biến, mô hình nến búa bao gồm một thân nến nhỏ có hai màu (đen hoặc trắng), và một bóng nến dưới lớn gấm 2-3 lần thân nến. Bóng nến trên rất nhỏ hoặc không tồn tại.
Một mô hình nến búa gần đường hỗ trợ sẽ báo hiệu một thông báo mua - một tín hiệu mua sẽ được khởi phát sau khi giá vượt mức cao nhất của mô hình nến. Một lệnh cắt lỗ bảo vệ có thể được đặt dưới đường hỗ trợ và tương tự, một lệnh chốt lãi có thể được đặt tại mức kháng cự.

Mô hình nến sao băng

Trên thực tế, mô hình nến sao băng là mô hình nến búa đảo chiều được tìm thấy gần mức cao nhất của khoảng giá gần đường kháng cự. Nó là một thân nến nhỏ (đen hoặc trắng) với bóng nến trên dài gấp 2-3 lần thân nến và có thân nến dưới rất nhỏ hoặc không tồn tại.
Giống như mô hình nến búa báo hiệu một thông báo mua, mô hình nến sao băng báo hiệu một thông báo bán nếu nó được tìm thấy gần đường kháng cự.

Ngay khi giá bứt xuống dưới mức thấp nhất của mô hình nến, một tín hiệu bán sẽ được khởi phát. Nếu thị trường biến động theo chiều ngược lại, một lệnh cắt lỗ bảo vệ có thể được đặt bên trên đường kháng cự để bảo vệ vốn.

Mô hình nến Harami tăng

Mô hình này được tạo thành từ một thân nến dài có màu bất kỳ, tiếp ngay theo sau là một thân nến nhỏ có màu bất kỳ. Thân nến thứ hai này cần đủ nhỏ để nằm gọn bên trong khoảng giá của thân nến dài hơn trước đó.
Mô hình nến Harami này là tăng nếu nó được tìm thấy gần phần dưới của khoảng giá, và nếu giá vượt mức cao nhất của thân nến dài hơn, một tín hiệu mua sẽ được khởi phát. Sẽ là thông minh nếu đặt lệnh cắt lỗ bên dưới đường hỗ trợ, và lệnh chốt lãi tại phía trên của khoảng giá để bảo vệ lợi nhuận của bạn.

Mô hình nến Harami giảm

Nếu cùng một mô hình được tìm thấy gần đường kháng cự thì nó được gọi là mô hình nến Harami giảm và báo hiệu một thông báo mua. Tương tự, nếu giá bứt xuống dưới mức thấp nhất của thân nến dài hơn thì một tín hiệu bán sẽ được khởi phát.
Một lệnh cắt lỗ bảo vệ có thể được đặt gần vùng phía trên của khoảng giá, trong khi các mức chốt lãi sẽ được tìm thấy gần đầu phía dưới của khoảng giá.

Các Mô hình Được lọc

Các mức được mua và bán quá mức có thể được xác định sử dụng các chỉ báo truyền thống (chẳng hạn như chỉ báo Stochastics) trong nỗ lực nhằm cải thiện độ tin cậy của các mô hình nến bên trong một khoảng giá xác định.
Chỉ báo Stochastics, và các chỉ báo có liên quan khác, dao động giữa các mức 0 và 100. Nếu nó bứt xuống dưới mức 20 thì đó là dấu hiệu điển hình về một thị trường được bán quá mức và nếu nó bứt lên trên mức 80 thì đó là dấu hiệu cho thấy rằng thị trường đang được mua quá mức.
Vì các mô hình đảo chiều được cân nhắc chỉ khi thị trường được mua quá mức hoặc bán quá mức, nên những chỉ báo có liên quan này sẽ giúp cải thiện khả năng có thể dự đoán của mô hình. Chẳng hạn, nếu một trong số các mô hình được nhắc đến ở trên được tìm thấy gần phần trên của khoảng giá và chỉ báo Stochastics (cụ thể là %D) ở trên mức 80, mô hình sẽ trở thành một dự đoán tin cậy hơn. Tương tự, nếu một mô hình đảo chiều xuất hiện gần đường hỗ trợ hơn, và chỉ báo Stochastics (%D) đã ở dưới mức 20 thì nó cũng được coi là một tín hiệu đáng tin cậy.
Việc lưu ý rằng các mô hình đảo chiều nên bị lờ đi nếu chúng xuất hiện trên một trong hai đầu của hai đường nằm ngang, trong khi các chỉ báo Stochastics nằm trên mức 20 hoặc dưới mức 80 là rất quan trọng vì chúng không đáng tin cậy.

Dù bạn là một nhà giao dịch mới hay nhà giao dịch giàu kinh nghiệm, giao dịch theo khoảng giá có thể là một phương pháp phân tích rất hữu ích. Tuy nhiên, ngay cả khi hành động giá khiến cho một giao dịch trông có vẻ sinh lời bên trong các đường biên trên và dưới của một khoảng giá, các nhà giao dịch cũng nên thận trọng.
Giao dịch theo khoảng giá vẫn có mức độ rủi ro nhất định bởi vì giá luôn luôn không dự đoán được. Nó có thể vượt ra khỏi các giới hạn của khoảng giá vào bất kỳ thời điểm xác định nào vào theo bất kỳ chiều hướng nào.
Việc sử dụng các bộ lọc, giống như các chỉ báo truyền thống có liên quan, có thể tăng cường độ tin cậy của các mô hình đảo chiều trong một khoảng giá xác định. Một ví dụ phổ biến của việc này là kết hợp các mô hình nến đảo chiều với các Chỉ báo dao động khi thị trường được mua quá mức hoặc bán quá mức. Nếu các biến động đảo chiều được xác định không được xác nhận bởi Chỉ báo dao động thì chúng không nên được coi trọng.
Share:

Đặc điểm của những nhà đầu tư thành công trong ngoại hối

Share:

Phương pháp Quản lý rủi ro trong giao dịch Ngoại hối

Share:

MẪU BIỂU ĐỒ KIM CƯƠNG

Mô hình giá đồ họa xuất sắc phục vụ cho sự xác nhận đảo ngược xu hướng hiện tại trong trường hợp xuất hiện trên biểu đồ. Theo truyền thống nó xuất hiện trong một xu hướng tăng.

Sự hình thành

Kim cương đồ thị được đặc trưng bởi bốn đường xu hướng hạn chế biểu hiện hai đường hỗ trợ dưới đây và hai mức kháng trên mà kết nối các mức thấp và đỉnh cao gần đây nhất, hình thành một hình dạng như một rực rỡ hoặc một hình thoi khi biên độ biến động ban đầu mở rộng và sau đó thu hẹp .
Mẫu biểu đồ hình kim cương

Giải thích Forex Diamond

Ngay khi đường hỗ trợ ở bên phải bị phá vỡ (cộng với một độ lệch nhất định có thể), nó có thể được hiểu là sự thay đổi hướng xu hướng xuống và đóng vai trò là tín hiệu bán ra.

Giá mục tiêu

Sau khi hình thành mẫu rực rỡ, giá nói chung ít được giảm xuống mức mục tiêu của nó, được tính như sau:
T = BP - H ,

Ở đâu:
T - mục tiêu cấp;
BP - hỗ trợ đúng điểm đột phá;
Chiều cao của chữ H (khoảng cách giữa đáy của mẫu và trên cùng)
Share:

MẪU BIỂU ĐỒ 3 ĐÁY

Mô hình giá ba đáy thường hình thành trong xu hướng giảm là dấu hiệu của một sự đảo chiều và sự tăng giá. Nó được coi là quan trọng hơn so với mô hình đáy đôi .

Sự hình thành

Mô hình đáy thứ ba được đặc trưng bởi ba mức thấp liên tiếp nằm ở cùng mức và hai mức cao giữa chúng. Vùng hỗ trợ và đường dây điện trở nối các đáy và đỉnh tương ứng. Sự hỗ trợ được xem là đặc biệt mạnh mẽ khi giá đảo ngược ba lần so với mức mà các nhà đầu tư tin rằng tài sản được đánh giá thấp hơn.
Hình chữ nhật dưới cùng

Giải thích về Ba Bottom

Nếu giá leo lên trên đỉnh của mô hình hoặc mức kháng cự (cộng với độ lệch nhất định) thì việc hình thành sẽ được hoàn thành và có thể được hiểu là thay đổi hướng xu hướng trở lên phục vụ như một tín hiệu mua vào.

Giá mục tiêu

Sau sự hình thành mô hình đáy thứ ba, giá nói chung được cho là tăng ít nhất đến mức mục tiêu của nó, được tính như sau:
T = R + H ,

Ở đâu:
T - mục tiêu cấp;
Mức kháng R (mức cao của địa phương gần đây);
Chiều cao của chữ H (khoảng cách giữa mức hỗ trợ và mức kháng cự)
Share:

MẪU BIỂU ĐỒ 3 ĐỈNH

Triple top là một mẫu giá thường được hình thành trong xu hướng đi lên cho thấy sự đảo chiều và sự sụt giảm giá. Nó được coi là quan trọng hơn so với mô hình đỉnh đôi .

Sự hình thành

Triple top được đại diện bởi ba tops liên tiếp nằm ở cùng một mức và hai đáy. Ngưỡng kháng cự và đường hỗ trợkết hợp đỉnh và đáy tương ứng. Kháng cự này được cho là mạnh mẽ khi giá đảo ngược ba lần so với mức mà tài sản được coi là quá giá.
Hình chữ nhật hàng đầu

Giải thích của Triple Top

Nếu giá giảm xuống dưới mức tối thiểu hoặc mức hỗ trợ của mô hình (cộng với độ lệch nhất định), quá trình hình thành sẽ hoàn thành và có thể được hiểu là thay đổi hướng xu hướng giảm dưới dạng tín hiệu bán ra.

Giá mục tiêu

Sau khi hình thành mô hình ba đỉnh, giá nói chung được cho là giảm xuống ít nhất đến mức mục tiêu của nó, được tính như sau:
T = S - H ,

Ở đâu:
T - mục tiêu cấp;
S - mức hỗ trợ (mức thấp gần đây của địa phương);
Chiều cao của chữ H (khoảng cách giữa mức hỗ trợ và mức kháng cự)
Share:

MẪU BIỂU ĐỒ ĐÁY ĐÔI

Mô hình giá đáy đôi được cho là dấu hiệu của sự đảo chiều xu hướng giảm hiện tại. Giá dự kiến ​​sẽ bắt đầu một cuộc biểu tình sau sự hình thành của nó, trong khi nó cần phải dài hơn để hình thành nên nó đáng tin cậy hơn.

Sự hình thành

Động lực giá theo mô hình tương tự như chữ Latin "w". Hai mức thấp gần đây nhất của giá biểu hiện một vùng hỗ trợmạnh , nơi các nhà đầu tư đảo chiều vị trí ngắn của mình, suy nghĩ rằng tài sản được đánh giá thấp ở mức này. Mặt khác, mức cao nhất tại địa phương được đánh giá là mức kháng cự .
Mẫu biểu đồ đúp dưới cùng

Giải thích Double Bottom

Khi giá thị trường vượt lên mức cao nhất hoặc mức kháng cự của mô hình (cộng với độ lệch nhất định) thì việc hình thành được xem là hoàn thành và có thể được hiểu là thay đổi hướng xu hướng trở lên phục vụ như một tín hiệu mua vào.

Giá mục tiêu

Sau khi hình thành mẫu đáy đôi, giá nói chung được cho là tăng ít nhất đến mức mục tiêu của nó, được tính như sau:
T = R + H ,

Ở đâu:
T - mục tiêu cấp;
R - mức kháng cự (gần đây địa phương cao);
Chiều cao của chữ H (khoảng cách giữa mức hỗ trợ và mức kháng cự)
Share:

Popular Items

Nhãn

Recent Posts