IMF cảnh báo nền kinh tế suy yếu, hâm nóng tài sản trú ẩn



Các cặp tiền tệ có giá trị trú ẩn trong thời điểm rủi ro kinh tế suy yếu sẽ hấp dẫn nhà đầu tư nhiều hơn tron lúc này. 
Cặp USDJPY khả năng duy trì áp lực giảm mạnh kéo dài


Share:

NGUY CƠ LÀN SÓNG ĐẠI DỊCH COVID LẦN 2 SẼ LÀM CHO NHU CẦU TIỀN MẶT TĂNG LÊN




Nguy cơ của một làn sóng virus corona đại dịch thứ hai sắp bắt đầu được cảm nhận ở Hoa Kỳ. Kể từ đầu tuần này, đã có sự gia tăng các trường hợp ở bang California, nơi những người bị nhiễm loại virus chết người này đã tăng 69%.

Nhìn chung tại Hoa Kỳ, sự gia tăng các trường hợp nhiễm bệnh đạt 32% so với tuần trước, và điều này phản ánh sự hiện diện của 30.000 trường hợp mới mỗi ngày ở nước này. Hoa Kỳ là quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của đại dịch virus corona và hiện có 2,3 triệu trường hợp nhiễm bệnh và hơn 121.000 người đã chết vì vi rút có tên là covid-19. WHO ước tính rằng làn sóng thứ hai của virus corona chưa đạt đến đỉnh điểm, để những người nhiễm bệnh có thể đạt tới 10 triệu người trên thế giới.

Tình trạng này chắc chắn đã được phản hồi bởi những người tham gia thị trường trong thị trường chứng khoán, do đó sàn giao dịch chứng khoán Phố Wall lại chuyển sang màu đỏ, nơi chỉ số chứng khoán giảm hơn 2% ngày hôm qua. Nỗi lo về một cuộc tấn công đại dịch virus corona ở Hoa Kỳ sẽ báo hiệu một sự chậm lại mới trong nền kinh tế trong nước đã bắt đầu phát triển kể từ khi nới lỏng khóa.

Trong lịch sử, cuộc tấn công đại dịch virus corona sẽ khiến những người tham gia thị trường quay trở lại với các công cụ rủi ro và lấy lại tiền mặt, nơi một số sẽ được chuyển đến nơi trú ẩn an toàn. Những người tham gia thị trường chú ý đến làn sóng tấn công thứ hai này vì sự khởi đầu sẽ được ban hành lại khóa hoặc kiểm dịch tại các thành phố lớn trên thế giới.

Hiệu ứng thị trường

Làn sóng thứ hai của hiện tượng virus corona đại dịch và mối đe dọa của cuộc chiến thương mại Mỹ - châu Âu, đã gây lo ngại cho những người tham gia thị trường dẫn đến việc chuyển các công cụ tài chính từ vốn chủ sở hữu thành tiền mặt và một số nơi trú ẩn an toàn. Tình hình trên chắc chắn sẽ khiến Đô la Mỹ mạnh lên và đồng Euro sẽ suy yếu trở lại trong tương lai gần.






Share:

ETHERUM có thể di chuyển trong vùng giá ngày hôm nay



View nhanh trong khung thời gian H1, chúng ta có thể thấy giá eth đang di chuyển trong kênh giá. Kỳ vọng giá sẽ đảo ngược tại vùng giá này


Share:

GBPUSD kỳ vọng giá kiểm tra lại Demand trước khi tăng tiếp



GBPUSD áp lực điều chỉnh giảm, kỳ vọng giá kiểm tra lại Demand trước khi tăng tiếp


Share:

Vàng cơ hội điều chỉnh giảm sau khi kiểm tra vùng kháng cự dài hạn 1780$ - 1800$



Vàng có khả năng điều chỉnh sau một quá trình tăng dài hạn


Share:

EURUSD Triển vọng đạt vùng kháng cự mới



Nhìn tổng quan, Giá Eurusd đã break out trendline H4, khả năng giá sẽ kiểm tra lại vùng demand và đảo ngược để tăng tiếp


Share:

12 Nguyên Lý Quan Trọng Trong Nền Tảng Lý Thuyết Dow

Trong những ghi chép của người đầu tiên đề ra lý thuyết này, Charles. H. Dow, có rất nhiều điều chứng tỏ rằng tác giả không hề nghĩ lý thuyết của mình sẽ trở thành một công cụ dùng cho dự báo thị trường chứng khoán hay thậm chí nó đã trở thành một hướng dẫn chung cho các nhà đầu tư. Những ghi chép ấy chỉ nói lên rằng, ông muốn lý thuyết của mình sẽ trở thành một thước đo biến động chung của thị trường. Dow thành lập công ty “Dịch vụ thông tin tài chính Dow-Jones” và được mọi người biết đến với việc tìm ra chỉ số bình quân thị trường chứng khoán. Những nguyên lý căn bản của học thuyết (ngày nay được đặt theo tên ông) đã được ông phác thảo ra trong một bài nghiên cứu mà ông viết cho “Tạp Chí Phố Wall”. Sau khi Dow mất, năm 1902, người kế tục ông làm biên tập cho tờ nhật báo, William. P. Hamilton, đã tiếp tục việc nghiên cứu lý thuyết này. Sau 27 năm nghiến cứu và viết các bài báo, ông đã tổ chức và cấu trúc lại thành Lý thuyết Dow như ngày nay.

Tìm hiểu về lý thuyết của Dow, trước tiên ta phải nghiên cứu đến chỉ số trung bình của thị trường. Nhìn chung giá chứng khoán của tất cả các công ty đều cùng lên và xuống. Tuy nhiên, một số cổ phiếu lại chuyển động theo hướng ngược lại xu thế chung của các cổ phiếu khác, cho dù là chỉ trong vài ngày hoặc vài tuần. Thực tế cho thấy khi thị trường lên giá thì giá của một số chứng khoán tăng nhanh hơn những chứng khoán khác, còn khi thị trường xuống giá thì một số chứng khoán giảm giá nhanh chóng trong khi có một số khác lại tăng lên, nhưng thực tế vẫn chứng minh rằng hầu như tất cả các chứng khoán đều dao động theo cùng một xu thế chung.

Cùng với những cố gắng nghiên cứu của mình, Charles Dow là người đã đưa ra khái niệm về “chỉ số giá bình quân” nhằm phản ánh xu thế chung của một số cổ phiếu đại diện cho thị trường. Hai loại chỉ số bình quân Dow-Jones được hình thành vào năm 1897 và vẫn còn cho đến cho đến ngày nay được Dow tìm ra và áp dụng trong các nghiên cứu của ông về xu thế chung của thị trường. Một trong hai loại chỉ số ấy là chỉ số của 20 công ty hỏa xa, loại còn lại gọi là chỉ số bình quân công nghiệp Dow Jones thuộc các ngành khác bao gồm 12 công ty mạnh nhất vào thời kỳ đó. Con số này tăng lên 20 công ty vào năm 1916 và đến 1928 là 30 công ty.

Khi nghiên cứu lý thuyết Dow có 12 nguyên lý quan trọng cần chú ý sau:

1. Chỉ số bình quân thị trường phản ánh tất cả (trừ hành động của Chúa)

Bởi vì nó phản ánh những hoạt động có liên kết với nhau của hàng nghìn nhà đầu tư, gồm cả những người có kinh nghiệm dự đoán thị trường giỏi nhất, có những thông tin tốt nhất về xu hướng và các sự kiện, những gì có thể nhận thấy trước và tất cả những gì có thể ảnh hưởng đến cung và cầu của các loại chứng khoán. Thậm chí cả những thiên tai hay thảm họa không dự tính được thì ngay khi xảy ra, chúng đã được thị trường phản ánh ngay vào giá của các loại chứng khoán. 

2. Ba xu thế của thị trường

Thuật ngữ thị trường nhằm chỉ giá chứng khoán nói chung, dao động của thị trường tạo thành các xu thế giá, trong đó quan trọng nhất là các xu thế cấp 1 (xu thế chính hay xu thế cơ bản). Đây là những biến động tăng hoặc giảm với quy mô lớn, thường kéo dài trong một hoặc nhiều năm và gây ra sự tăng hay giảm đến 20% giá của các cổ phiếu. Chuyển động theo xu thế cấp 1 sẽ bị ngắt quãng bởi các bởi sự xen vào của các dao động cấp 2 theo hướng đối nghịch - gọi là những phản ứng hay điều chỉnh của thị trường. Những biến động này xuất hiện khi xu hướng cấp 1 tạm thời vượt quá mức độ hiện tại của bản thân nó (gọi chung các biến động này là các biến động trung gian - biến động cấp 2). Những biến động cấp 2 bao gồm những biến động giá nhỏ hay gọi là những biến động hàng ngày và không có ý nghĩa quan trọng trong Lý thuyết Dow.

3. Xu thế cấp 1

Như đã nói đến ở phần trước, xu thế cấp 1 là những chuyển động lớn của giá, bao hàm cả thị trường, thường kéo dài hơn 1 năm và có thể là trong vài năm. Nếu như mỗi đợt tăng giá liên tiếp đều đạt đến mức cao hơn mức trước đó và mỗi điều chỉnh cấp 2 đều dừng lại ở mức đáy cao hơn mức đáy của lần điều chỉnh trước thì xu thế cấp 1 lúc này là tăng giá - thị trường lúc này là thị trường con bò tót - thị trường tăng giá (Bull Market) Còn ngược lại nếu mỗi biến động giảm đều làm cho giá xuống những mức thấp hơn còn mỗi điều chỉnh đều không đủ mạnh để làm cho giá tăng lên đến mức đỉnh của những đợt tăng giá trước đó thì xu thế cấp 1 của thị trường lúc này là giảm giá, thị trường được gọi là thị trường con gấu - thị trường giảm giá (Bear Market).

Thông thường, về lý thuyết thì xu thế cấp 1 chỉ là một trong 3 loại xu thế mà một nhà đầu tư dài hạn quan tâm. Mục đích của nhà đầu tư đó là mua chứng khoán càng sớm càng tốt trong một thị trường lên giá, sớm đến mức anh ta có thể chắc chắn rằng mới có duy nhất mình anh ta bắt đầu mua và sau đó nắm giữ đến khi và chỉ khi Bull Market đã thực sự kết thúc và bắt đầu Bear Market. Nhà đầu tư hiểu rằng họ có thể bỏ qua một cách an toàn tất cả những sự xen vào của các điều chỉnh cấp 2 và các dao động nhỏ vì họ đầu tư dài hạn theo xu thế chính của thị trường. Tuy nhiên với một kinh doanh chứng khoán ngắn hạn thì những biến động của xu thế cấp 2 lại có vai trò quan trọng bởi họ kiếm lợi nhuận dựa trên những biến động ngắn hạn của thị trường

4. XU THẾ CẤP 2

Xu thế cấp 2 là những điều chỉnh có tác động làm gián đoạn quá trình vận động của giá theo xu thế cấp 1. Chúng là những đợt suy giảm tạm thời (trung gian) hay còn gọi là những điều chỉnh xuất hiện ở các Bull Market; hoặc những đợt tăng giá hay còn gọi là hồi phục xuất hiện ở các Bear Market. Thường thì những biến động trung gian này kéo dài từ 3 tuần đến nhiều tháng. Chúng sẽ kéo ngược lại khoảng 1/3 đến 2/3 mức tăng (hay giảm tùy loại thị trường) của giá theo xu thế cấp 1. Do đó, chẳng hạn trong Bull Market, nếu chỉ số giá bình quân công nghiệp tăng liên tục ổn định hoặc có gián đoạn rất nhỏ và mức tăng đạt đến 30 điểm, khi đó xuất hiện xu thế điều chỉnh cấp 2, thì người ta có thể trông đợi xu thế điều chỉnh này có thể làm giảm từ 10 đến 20 điểm cho đến khi thị trường lặp lại xu thế tăng cấp 1 ban đầu của nó.

Dẫu sao cũng cần lưu ý là qui tắc giảm 1/3 đến 2/3 không phải là một luật lệ không thể phá vỡ mà nó đơn giản chỉ là một nhận xét về khả năng có thể xảy ra mà hầu hết các biến động cấp 2 đều bị giới hạn trong mức này. Rất nhiều trong số đó ngừng tác động ở điểm gần với mức 50% mà rất hiếm khi đạt đến mức 1/3. Như vậy có 2 tiêu chí để nhận định một xu thế cấp 2: Tất cả những chuyển động của giá ngược hướng với xu thế cấp 1 kéo dài ít nhất 3 tuần và kéo hoàn lại ít nhất 1/3 mức biến động thức của xu thế cấp 1 (tính từ điểm kết thúc biến động cấp 2 trước đó đến biến động cấp 2 này, bỏ qua những dao động nhỏ) thì được coi là thuộc loại trung gian hay còn gọi là biến động cấp 2. Mặc dù đã có những tiêu chí để xác định một xu thế cấp 2 nhưng vẫn có những khó khăn trong việc xác định thời điểm hình thành và thời gian tồn tại của xu thế.

5. Xu thế nhỏ (Minor)

Đây là những dao động trong thời gian ngắn (dài tối đa 3 tuần, hường chỉ dưới 6 ngày) mà theo như thuyết Dow đã nói đến, bản thân chúng không thực sự có ý nghĩa nhưng chúng góp phần tạo nên các xu thế trung gian. Thông thường thì một biến động trung gian dù là một xu thế cấp 2 hay là một phần của xu thế cấp 1 xen giữa hai xu thế cấp 2 liên tiếp, đều được tạo thành từ một dãy gồm 3 hoặc nhiều hơn những dao động nhỏ khác nhau. Xu thế nhỏ là dạng duy nhất trong 3 loại xu thế có thể bị “lôi kéo” (bị tác động). Để tác động vào xu thế cấp 1 và 2 thì cần những giao dịch với khối lượng rất lớn và điều này hầu như là không thể.

Để làm rõ khái niệm về 3 xu thế của thị trường, ta có thể so sánh với biến động của sóng biển với một số điểm giống nhau như sau:

Xu thế cấp 1 trong giá chứng khoán giống như những đợt thủy triều lên hoặc xuống. Có thể so sánh thị trường lên giá (Bull Market) với thủy triều lên. Thủy triều dâng nước lên bờ biển ngày càng xa vào sâu trong bờ và đến đỉnh của thủy triều thì lại quay ngược trở về biển. Khi thủy triều rút lại được so sánh với thị trường xuống giá (Bear Market). Và cho dù trong lúc thủy triều lên hay xuống thì luôn có những con sóng đập vào bờ rồi lại lùi lại về biển. Khi thủy triều lên mỗi con sóng liên tiếp nhau vào bờ, sóng sau vào sâu hơn sóng trước lại góp phần làm thuỷ triều vào xa hơn trong bờ, nhưng khi thủy triều xuống mỗi con sóng không mang nước ra xa bờ mà nước giảm xuống là do sóng sau vào đến bờ ở mức thấp hơn (tụt lại hơn) so với đỉnh của sóng trước, mỗi con sóng do đó sẽ trả lại dần dần bờ biển như trước khi thủy triều lên. Những con sóng này là các xu thế trung gian, có thể cấp1 hoặc cấp 2 tùy thuộc hướng chuyển động của nó so với hướng của thủy triều vào thời điểm xảy ra xu thế đó. 

Mặt biển cũng luôn luôn biến động với những gợn sóng nhấp nhô chuyển động cùng chiều, ngược chiều hoặc chuyển động ngang so với hướng của những con sóng lớn - những gợn sóng này biểu hiện cho các xu thế nhỏ (những dao động hàng ngày có vai trò không quan trọng như đã nói ở phần trên). Những đợt thủy triều, những con sóng và những gợn sóng nhỏ chính là những hình ảnh so sánh giống nhất đối với những biến giá của một thị trường. Trong những phần sau ta sẽ còn xem xét đến một lý thuyết khác về thị trường gọi là Lý thuyết Sóng Elliott, trong đó mọi biến động của thị trường đều gắn trực tiếp với các con sóng.

6. Bull Market (thị trường con bò tót - thị trường tăng giá)

Một xu thế tăng giá cơ bản thường bao gồm 3 thời kì.

Thời kì đầu tiên là quá trình “tích tụ”, trong quá trình này, những nhà đầu tư có tầm nhìn xa sẽ tiến hành xem xét các doanh nghiệp, có thể vào thời kì này doanh nghiệp đang suy thoái nhưng nhà đầu tư nhận thấy khả năng doanh ngiệp có thể chuyển biến tình hình thành tăng trưởng nhanh chóng, có thể giá cổ phiếu của nó sẽ tăng trong thời gian tới. Đây cũng là thời điểm mà cổ phiếu này đang được chào bán rất nhiều bởi những nhà đầu tư đang có tâm lý rất chán nản và lo lắng về tình trạng của những cổ phiếu của họ và để nhằm tăng dần giá chào bán của họ khi thị trường xuất hiện sự suy giảm trong khối lượng giao dịch. Các bản báo cáo tài chính của doanh nghiệp đó có thể không tốt thậm chí rất tồi. Công chúng hoàn toàn cảm thấy thất vọng khi tham gia vào thị trường chứng khoán bởi họ thấy lượng tiền đã đầu tư của họ đang giảm giá trị nhanh chóng và có nguy cơ còn giảm nữa, vì vậy mà họ muốn thoát ra khỏi thị trường. Tuy nhiên có thể nhận thấy một điều vào cuối giai đoạn thứ nhất này là trong hoạt động của công ty và trong những biến động trên thị trường đã có những biến chuyển tuy mới chỉ ở mức hạn chế, bắt đầu xuất hiện những đợt tăng giá nhỏ.

Thời kỳ thứ 2 là thời kỳ của sự tăng trưởng khá vững chắc. Họat động của doanh ngiệp đang theo dõi gia tăng mạnh cùng với những khởi sắc trong nội bộ doanh nghiệp và doanh thu của nó cũng tăng dần và bắt đầu thu hút các mối quan tâm trên thị trường. Đây chính là thời kì mang lại nhiều lợi nhuận cho các nhà kinh doanh chứng khoán theo trường phái Phân tích kỹ thuật.

Cuối cùng là thời kì thứ 3, trong thời kì này thị trường sôi sục với những biến động của nó. Công chúng rất háo hức với từng biến động của thị trường. Tất cả các thông tin tài chính của doanh nghiệp đưa ra đều rất tốt, giá chứng khoán tăng cao ngoài sức tưởng tượng và đang là những vấn đề nóng hổi được đưa lên trang đầu của các tờ báo ra hàng ngày. Đến thời điểm sau khoảng hai năm tính từ lúc thị trường bắt đầu đi lên, những người ít kinh nghiệm có thể mới cho rằng thị trường lúc này mới chắc chắn cho lợi nhuận của họ và muốn tham gia vào thị trường. Nhưng thực sự thì sau hai năm, giá đã tăng khá cao, câu hỏi nên đặt ra vào lúc này là “nên bán cổ phiếu nào? ” chứ không còn là “nên mua cổ phiếu nào ? ” nữa. Vào cuối thời kì thứ 3, người ta có thể thấy nạn đầu cơ tràn lan, khối lượng giao dịch vẫn tiếp tục tăng nhưng “air-pocket-stock”* xuất hiện ngày càng nhiều, số lượng cổ phiếu có giá thấp nhưng không có giá trị đầu tư cũng gia tăng và cả những đợt phát hành trái phiếu cũng ít dần đi.

(* Air-pocket-stock là những cổ phiếu đột ngột giám giá mạnh một cách bất thường - có thể là do nhà đầu tư bán ồ ạt do một tin đồn xấu. Lý do dùng khái niệm này là vì nó được so sánh với việc máy bay đột ngột mất độ cao, ngoài khả năng kiểm soát khi gặp air-poket là những dòng khí hướng xuống, tác động làm mất chiều cao máy bay)

7. Bear Market (Thị trường con gấu - thị trường giảm giá)

Xu thế giảm giá của thị trường cũng được chia thành ba thời kỳ.

Thời kỳ đầu tiên là thời kỳ “phân bổ” (thời kỳ này thực sự bắt đầu ở giai đoạn cuối của Bull Market trước đó). Trong thời kỳ này những nhà đầu tư có tầm nhìn xa đều nhận thấy rằng doanh thu (và các chỉ số kinh doanh nói chung) của những công ty mà họ đang nắm giữ cổ phiếu đều đang đạt mức cao không bình thường và họ muốn nhanh chóng thoát khỏi vị thế sở hữu cổ phiếu của những công ty này. Khối lượng giao dịch vẫn rất cao mặc dù đã có những dấu hiệu của xu hướng giảm, công chúng vẫn rất “năng động” nhưng cũng bắt đầu có dấu hiệu lo lắng và cũng không còn nhiều kỳ vọng kiếm lợi nhuận.

Thời kỳ thứ hai được gọi là thời kỳ "hỗn loạn". Số lượng người mua bắt đầu giảm dần và những người bán bắt đầu trở lên vội vã bán đi những cổ phiếu mình đang nắm giữ. Xu thế giảm giá bắt đầu tăng mạnh làm đồ thị giá gần như dốc thẳng xuống và khối lượng giao dịch đạt đến mức đỉnh điểm. Giai đoạn này được gọi là hỗn loạn vì sự sụt giảm thường xảy ra rất trầm trọng thậm chí là thái quá với mức độ vượt quá cả thực trạng của các doanh nghiệp. Sau giai đoạn hỗn loạn có thể có giai đoạn hồi phục (một dạng xu thế cấp hai) hoặc một giai đoạn dao động ngang của đồ thị thị trường (các dao động không có hướng đi lên hay đi xuống mà là dao động trong một khoảng cố định theo chiều ngang của thị trường) trong một thời gian tương đối dài. Giai đoạn này thể hiện tâm lý chán nản của một bộ phận nhà đầu tư, họ cũng chính là những người đã cố gắng nắm giữ cổ phiếu qua thời kỳ hỗn loạn trước đó hoặc cũng có thể là những người đã mua cổ phiếu trong thời kỳ đó bởi vì lúc đó giá của cổ phiếu rõ ràng là rẻ hơn rất nhiều so với trước đó vài tháng. Thông tin về các doanh nghiệp ngày càng xấu đi. Kết thúc giai đoạn này mới bước vào thời kỳ thứ ba.

Vào thời kỳ thứ ba, xu thế đi xuống trên thị trường đã yếu dần, nhưng lại được duy trì bởi những lệnh bán nhiều và liên tục thể hiện “nỗi buồn” và sự lo lắng của những nhà đầu tư đang rất cần tiền cho những nhu cầu riêng của họ. Các cổ phiếu đều giảm đến mức thấp nhất, thậm chí gần như mất hoàn toàn giá trị. Những cổ phiếu có chất lượng cao hầu như không được giao dịch vì những người sở hữu chúng đều muốn nắm giữ đến cùng. Ở giai đoạn cuối của Bear Market, như một kết quả của toàn bộ thời kỳ giảm giá trước, cả thị trường chỉ tập trung vào giao dịch một số loại cổ phiếu. Bear Market kết thúc tất cả với những tin xấu về các doanh nghiệp, về thị trường ở mức có thể coi là tồi tệ nhất đã thể hiện ra và có thể đến

8. Hai đường chỉ số bình quân của thị trường phải cùng xác nhận xu thế của thị trường.

Đây là câu hỏi thường xuyên đặt ra nhất và cũng khó giải thích nhất đối với hệ thống các nguyên lý của lý thuyết Dow. Tuy nhiên từ khi được đưa ra cho đến nay nó đã được thời gian chứng minh tính đúng đắn và nó vẫn được vận dụng cho đến ngày nay và bất kì một ai đã xem xét những số liệu ghi lại thì đều không thể có ý kiến phản đối với nguyên lý này. Còn với những người ít quan tâm hay bỏ qua nguyên lý này thì trong thực tế kinh doanh đã và sẽ phải nhiều lần cảm thấy tiếc nuối. Điều nguyên lý này muốn nói đến là không thể có một dấu hiệu chính xác nào về sự thay đổi xu thế thị trường có thể được khẳng định chỉ thông qua xem xét biến động của duy nhất một loại chỉ số bình quân (ở đây muốn nói đến những thị trường bao gồm nhiều chỉ số bình quân, chẳng hạn như ở Mỹ, như nói ở phần đầu, có hai loại chỉ số bình quân).

 

  • Chỉ số bình quân bên dưới chỉ ra thị trường đi xuống
  • Chỉ số bình quân phía trên chỉ ra thị trường đi lên

Như vậy thị trường sẽ vẫn đi xuống do cả hai không cùng xác nhận một sự đảo chiều trong xu thế hiện tại của thị trường.

Chỉ khi nào cả chỉ số bình quân cũng chỉ ra là thị trường đang có xu thế đi lên thì ta mới có cơ sở xác nhận một dấu hiệu về sự đổi chiều của xu thế chính. Trong hình vẽ trên, trừ khi có một biến động nào khác nếu không chỉ duy nhất chỉ số bình quân bên dưới sẽ không để chuyển hướng chung của thị trường mà thậm chí còn bị kéo xuống. Xu thế cấp 1 của thị trường rõ ràng vẫn chưa rõ ràng. Đây là một ví dụ áp dụng nguyên lý về sự xác nhận. Không cần thiết cả hai chỉ số bình quân phải cùng xác nhận vào 1 ngày. Thường thì cả hai chỉ số này sẽ cùng chuyển động đến cùng một khoảng đỉnh hoặc đáy mới, nhưng có nhiều trường hợp mà một trong hai chỉ số sẽ trễ hơn chỉ số kia vài ngày, vài tuần, thậm chí là một đến hai tháng. Trong những tình huống như vậy thì nhà đầu tư phải giữ kiên nhẫn và đợi cho đến khi thị trường thật sự thể hiện ra bản chất xu hướng của nó.

9. Khối lượng giao dịch áp dụng kèm với xu thế thị trường.

Điều này thể hiện một thực tế là khi giá biến động theo đúng xu thế cấp 1 thì các họat động kinh doanh trên có xu hướng mở rộng hơn. Do vậy, với Bull Market, khối lượng giao dịch sẽ tăng nếu giá tăng, và sẽ thu lại nếu giá giảm; với Bear Market giá trị giao dịch sẽ tăng nếu giá giảm và ít khi giá có dấu hiệu phục hồi. Điều này vẫn đúng ở mức độ thấp hơn tức là với những xu thế cấp 2, đặc biệt là trong giai đoạn đầu của một xu thế hồi phục cấp 2 trong một Bear Market, khi mà các diễn biến của thị trường chỉ ra rằng giá sé tăng lên theo một số đợt tăng giá nhỏ, còn các biến động kéo giá xuống giảm đi.

Các kết luận ở đây thường không có giá trị nếu chỉ dựa trên diễn biến trong vài ngày và càng không có giá trị với những kết luận dựa trên một phiên giao dịch đơn lẻ. Nguyên lý này chỉ phát huy hiệu quả nếu dựa trên những diễn biến của khối lượng giao dịch chung trong thời gian giao dịch tương đối dài. Hơn nữa, theo Lý thuyết Dow thì chỉ dựa trên những phân tích về giá mới có thể đưa ra được những dấu hiệu mang tính quyết định về xu thế thị trường, còn khối lượng giao dịch chỉ có thể cung cấp thêm những chứng cứ phụ để giải thích rõ hơn biến động của thị trường và sử dụng vào những tình huống khi dấu hiệu chính tỏ ra còn nhiều nghi ngờ. 

10. Đường ngang có thể thay thế cho các xu thế cấp 2.

Đường ngang theo định nghĩa của Lý thuyết Dow là những chuyển động ngang có tính chất trung gian của thị trường phản ánh thời kỳ mà giá biến động rất ít (với thị trường Mĩ là nhỏ hơn hoặc bằng 5%). Đường ngang thường kéo dài từ 2 đến 3 tuần hoặc đôi khi là lâu hơn (trong vài tháng). Khi thị trường xuất hiện mô hình dạng đường ngang, điều này chỉ ra rằng áp lực của cung và cầu trên thị trường là tương đối cân bằng.

Thực tế trong giai đoạn này các lệnh đặt mua hoặc bán đều thể hiện một sự kiệt sức. Những người muốn mua cổ phiếu thì phải tăng mức giá chào mua để khuyến khích người có cổ phiếu mà họ muốn bán cho họ, còn những người muốn bán thì với thị trường có biến động dạng đường ngang họ thấy rằng số lượng người mua đang ít dần và kết quả là họ phải giảm giá để có thể bán được những cổ phiếu của mình. Do vậy một mức giá dao động vượt ra ngoài mức dao động của mô hình đường ngang đang xuất hiện trên thị trường sẽ là một dấu hiệu rõ ràng cho một thị trường lên hoặc xuống giá tùy thuộc vào hướng của dao động vượt ra ngoài. Nhìn chung mô hình đường ngang càng kéo dài lâu và biên độ dao động càng nhỏ thì ý nghĩa của dao động vượt ra ngoài mô hình đường ngang càng lớn.

Mô hình đường ngang thường diễn ra dài vừa đủ để khoảng thời gian tồn tại của nó mang một ý nghĩa quan trọng đối với những người phân tích thị trường theo trường phái Dow. Những biến động vượt ra ngoài mô hình đường ngang có thể là dấu hiệu cho thấy mô hình này chính là những mức đỉnh hoặc đáy rất quan trọng của thị trường bởi nếu là đỉnh thì đó chính là giai đoạn “phân bổ” - giai đoạn ban đầu của một Bear Market; còn nếu dấu hiệu cho thấy nó có thể là mức đáy của thị trường thì đây là giai đoạn “tích tụ” - giai đoạn đầu của một Bull Market. Thông thường nhất, nó đóng vai trò như một thời kỳ yên tĩnh thuộc giai đoạn cuối cùng trong quá trình hình thành hoặc thuộc giai đoạn củng cố xu thế cấp 1 của thị trường. Trong những trường hợp đó mô hình này đóng vai trò như những sóng cấp 2. Mức biến động 5% cũng hoàn toàn chỉ là một mức biên độ được xác định theo kinh nghiệm bởi trên thực tế rằng mô hình đường ngang có rất nhiều điểm tương đồng với mô hình cũng có nhiều biến động ngang với biên độ lớn hơn nhưng hai biên của nó vẫn được xác định khá rõ ràng và tương đối chuẩn nên cũng được tính là một loại mô hình đường ngang.

11. Chỉ sử dụng mức giá đóng cửa để nghiên cứu.

Lý thuyết Dow không quan tâm và ít đề cao đến các mức biến động giá (thậm chí là cả mức giá cao nhất và thấp nhất) trong ngày mà chỉ quan tâm đến những số liệu cuối ngày giao dịch, chẳng hạn như mức bình quân giá bán cuối cung trong ngày.

Xem xét một thị trường với xu thế cơ bản là tăng giá và đang ở thời điểm giá tăng và đạt mức đỉnh của ngày hôm đó vào 11 giờ sáng, giả sử lúc đó chỉ số bình quân đang là 152.45 sau đó lại giảm xuống mức giá đóng cửa là 150.70. Để có thể xác nhận thị trường vẫn đang trong xu thế cơ bản là tăng giá thì ở đợt tăng giá tiếp theo mức giá đóng cửa phải cao hơn 150.70. Trong trường hợp này mức đỉnh 152.45 không được quan tâm đến. Trái lại nếu ở đợt thứ 2, dù giá có đạt đến mức đỉnh ở 152.60 nhưng giá đóng cửa lại nhỏ hơn 150.70 thì hoàn toàn có cơ sở để nghi ngờ liệu xu thế tăng giá hiện tại có còn tiếp tục hay không.

Trong những nắm gần đây, nhiều ý kiến đã được đưa ra xung quanh vấn đề liệu chỉ số giá bình quân phải tăng thêm hay giảm đi bao nhiêu so với giới hạn đạt được của đợt dao động giá trước (đỉnh hoặc đáy) để có thể báo hiệu (xác nhận một xu thế mới hoặc xác nhận lại xu thế hiện tại) xu thế thị trường. Dow và Hamilton luôn rất cẩn thận trong việc xem xét bất cứ một dao động nhỏ nào xen vào xu thế hiện tại làm giá thay đổi thậm chí đến 0. 01 và hai ông đều cho rằng dấu hiệu đó hoàn toàn có thể là một dấu hiệt đúng. Nhưng ngày nay nhiều nhà phân tích cho rằng mức thay đổi đó phải đạt ít nhất 1.00 mới có thể được coi là một dấu hiệu của thị trường.

12. Một xu thế cần được giả định rằng vẫn đang tiếp tục cho đến khi có một dấu hiệu thực sự về sự đảo chiều của xu thế đó được xác định.

Nguyên lý này là một trong những nguyên lý có nhiều ý kiến tranh cãi nhất. Nhưng khi được hiểu chính xác nó vẫn có giá trị rất lớn trong phân tích thị trường. Nguyên lý thứ mười hai giúp đề phòng với những thay đổi (phản ứng) quá sớm trong quan điểm về thị trường, theo như chúng ta hay nói là “cầm đèn chạy trước ô tô”, của bất kì nhà đầu tư nào. Điều này không nhằm làm nhà đầu tư trì hoãn hành động của mình lại một cách không cần thiết, cho dù là chỉ một phút, khi những dấu hiệu về sự thay đổi của xu thế thị trường là đã rõ ràng, nhưng nó nhắc nhở một điều rằng lợi thế sẽ nghiêng về phía những người biết chờ đợi cho đến khi họ chắc chắn về tình hình thị trường và rõ ràng sẽ không nghiêng về những người quá nôn nóng với hành động của họ. Khả năng xảy không thể được phát hiện một cách rõ ràng bởi bản chất của nó là những biến động thực tế của thị trường và chúng thay đổi thường xuyên. Bull Market không thể lên giá mãi và Bear Market thì sớm muộn cũng đạt đến đáy của nó. Khi một xu thế cấp 1 của thị trường vừa mới được hình thành thì cho dù có những dao động trong ngắn hạn ta vẫn có thể chắc chắn rằng nó không thay đổi, nhưng nếu nó kéo dài càng lâu thì mức chắc chắn càng ít dần đi, các điểm tái xác nhận xu thế thị trường cũng có giá trị ít dần đi. Động lực của người mua và khả năng bán được những cổ phiếu với giá cao hơn giá mua để kiếm lời sẽ ngày càng thấp nếu như Bull Market đã tồn tại trong nhiều tháng và rõ ràng là thấp hơn khi nó mới hình thành. 

Một hệ quả tất yếu từ nguyên lý này đó là khi đã có những dấu hiệu về sự thay đổi của xu thế thị trường thì sự thay đổi đó có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Vì vậy bất cứ nhà đầu tư nào cũng cần phải theo dõi thị trường một cách thường xuyên.

Share:

Lo ngại làn sóng Covid lần 2 có thể hâm nóng tài sản trú ẩn

Những người tham gia thị trường bắt đầu xem xét lại làn sóng tấn công virus corona thứ hai đã lây nhiễm hơn 9 triệu người trên thế giới.


Sau khi nhiều quốc gia bắt đầu nới lỏng kiểm dịch, các bệnh viện bắt đầu bị lây nhiễm lại với những bệnh nhân nhiễm virus chết người này. Mỹ, Brazil và Ấn Độ là những quốc gia đã nới lỏng giãn cách xã hội và hiện đang phải đối mặt với sự gia tăng số bệnh nhân nhiễm bệnh lên tới hàng chục nghìn người.
WHO báo cáo rằng đã có sự gia tăng của hơn 180.000 người bị nhiễm vi-rút này trong tuần qua và sự gia tăng này không phải do nhiều xét nghiệm mà do việc triển khai các giao thức y tế từ mỗi quốc gia bị nới lỏng.
Số lượng bệnh nhân mắc bệnh cao trên thế giới sẽ chỉ khiến những người tham gia thị trường chờ đợi trong tương lai, bởi vì tình hình có thể xấu đi và các hoạt động kinh doanh có thể bị đóng cửa và đây là tin xấu cho tăng trưởng kinh tế vừa mới bắt đầu phục hồi.
Mặt khác, Fed sẽ tiếp tục tăng thanh khoản lên tới 750 tỷ USD để chống lại virus corona và tràn ngập thị trường với tính thanh khoản cao. Tình trạng này chắc chắn có thể cung cấp bong bóng trên thị trường giao dịch. Fed sẽ tiếp tục thực hiện các chương trình kích thích QE trên thị trường tiền tệ chính và phụ để dòng tín dụng dư thừa có thể giúp các doanh nhân điều hành doanh nghiệp của họ trong lúc đại dịch virus corona.
Hiệu ứng thị trường
Nỗi sợ về một làn sóng virus corona thứ hai đang gia tăng vì các bệnh nhân bị nhiễm đã tăng trở lại sau một tuần. Tình trạng này chắc chắn sẽ làm cho nhu cầu về nơi trú ẩn an toàn bao gồm vàng, sẽ có xu hướng tăng lên.


Share:

Những ý tưởng đầu tư 2020 khi có lượng tích trữ tiền mặt


Trước khi đưa ra bất kỳ ý tưởng cho danh mục đầu tư nào, xin hãy xem lại một số động thái của tập đoàn Berkshire Hathaway của lão già Warren Buffet.

- Berkshire Hathaway đã bán tất cả các cổ phần của hãng hàng không trị giá 4 tỷ đô la, bao gồm các vị trí ở Hoa Kỳ, Mỹ, Tây Nam và Delta. 

- Nhiều nguồn tin khác nhau đã báo cáo trong cùng tháng rằng Berkshire cũng đã bán cổ phiếu Goldman Sachs , Wells Fargo và Bank of America trị giá hàng tỷ đô la .


Chúng ta có thể hiểu lý do của những động thái đó, đơn giản là : 

Chẳng ai dám bay khi nguy cơ có thể dễ dàng nhiễm coronavirus trên máy bay khi có khả năng 1 trong 100 người có thể chết vì căn bệnh này.
Đối với các ngân hàng, vốn vay ngắn hạn và cho vay dài hạn, không có lợi nhuận khi không có chênh lệch lợi tức ( lãi suất ngân hàng đang giảm thấp nhất và có thể sẽ duy trì ở mức lãi suất âm trong tương lai)
Với ước tính GDP của Hoa Kỳ ký hợp đồng 10 đến 15% trong quý 2 năm 2020 và tỷ lệ thất nghiệp của Hoa Kỳ ở mức khoảng 20% (chưa từng thấy kể từ Đại suy thoái) và phần lớn thế giới vẫn đang trong tình " bị khóa".
Và vấn đề còn lại là chúng ta suy xét xem, lão già sẽ di chuyển dòng tiền bán cổ phiếu đi về đâu, theo Forbes, lão già Warren Buffet bán cổ phiếu thu về ước tính khoảng 137 tỉ đôla. Lão sẽ đầu tư cái gì ?
Nhìn lại lịch sử, lão già Warren Buffet đã mua Bạc với giá dưới 5 đôla/ oz 1997, và bán nó với giá 13 đôla/oz vào năm 2006, nhưng vài năm sau giá Bạc đã tăng lên đến 50 đôla /oz, sau đó ổn định mức giá khoảng 15 đôla/oz. Nghĩa là giá vẫn ổn định ở mức dự đoán của lão Warren Buffet.
Cũng là năm 1997, thị trường Châu Á nói chung và Đông nam Á nói riêng chịu thiệt hại nặng nề bởi khủng hoảng tài chính, nguyên nhân chính là do lão già George Soros làm, phi vụ đấy lão kiếm khoảng 300 triệu đôla mà đã khiến Thái lan, Myanmar , Mã lai phải chao đảo
Bỏ qua hai lão già đó , mình hãy xem lão kế tiếp là lão già Donald Trump đang làm gì với nước Mỹ 
- Với làn sóng Covid, Trump bắt đầu cho in tiền bơm vào thị trường hàng nghìn tỷ đôla , thị trường bao trùm bởi những định lượng ( QE), mua trái phiếu doanh nghiệp, v.v.v
- Lãi suất vãy liên tục điều chỉnh giảm để hỗ trợ kinh tế trong thời kỳ khủng hoảng sức khỏe. Và tại thời điểm viết bài, nước Mỹ đang diễn ra khủng hoảng song song với cuộc biểu tình hàng loạt của người Da đen, đánh dấu cuộc khủng hoảng phân biệt màu da chủng tộc tại nước Mỹ
Với tình hình như thế này làm thế nào lãi suất có thể được bình thường hóa với nợ Kho bạc ngày càng tăng ở mức 19,5 nghìn tỷ đô la. Với bảng cân đối kế toán của Cục dữ trữ Liêng bàng Mỹ (Fed) ở mức 6,98 nghìn tỷ USD và Kho bạc Hoa Kỳ đang tìm cách vay thêm hàng nghìn tỷ đồng từ Fed để tài trợ cho khoản thâm hụt 3,8 nghìn tỷ USD của mình trong năm 2020, Fed sẽ làm thế nào để thoát khỏi vị thế của mình? Ngay cả với lãi suất kho bạc 10 năm tối thiểu 0,7% hiện nay , chính phủ Mỹ có bao giờ có thể trả được nợ không?
Không cần bàn cãi thêm, chắc chắn Fed lãi phù phép với đường cong lãi suất để giúp kinh tế Hoa kỳ vượt cơn đại suy thoái kinh tế. Nếu ai đã từng xem bộ phim tài liệu nổi tiếng về cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1998 - 2000 ( Inside Job) của đạo diễn Charles Ferguson thì sẽ hiểu Fed nó phù thủy cỡ nào.
Điểm lại các vấn đề trên là gì?
Đó là các quốc gia trên thế giới nó chung và Hoa kỳ là điển hình đều đang trong tình trạng in tiền một cách tích cực, lạm phát tăng và dĩ nhiên Tiền tệ sẽ mất giá. Vậy thì khoản đầu tư sinh lợi trong giai đoạn này chắc chắn không phải là tiền tệ Đôla hay Jpy , CHF mà chính là Vàng và Bạc. 
Và chúng ta hãy lướt sơ qua ngân hàng Goldman Sach đã dự báo giá vàng trong 12 tháng sẽ là 2000 đôla/oz thay vì 1800 đôla/oz theo dự báo từ tháng 3. Nghĩa là giá Vàng tiềm năng vẫn còn tăng.
Còn theo quan điểm cá nhân của tôi thì khác. Xét về mức rủi ro và lợi nhuận giữa Vàng và Bạc thì Bạc chắc chắn sẽ mang lại lợi nhuận cao hơn và rủi ro thấp hơn.
Giá vàng tại thời viết bài, cập nhật theo giá hợp đồng tháng 8 là 1753 đôla/oz và khả năng tăng lên mức 2000 đôla/oz trong năm nay 
Giá Bạc hợp đồng tháng 7 là 17,5 đôla/oz có thể tăng lên 20 đôla đến 40 ddoola/oz trong năm nay. Với mức rủi ro thấp hơn vì giá bạc đang ở mức giá bình quân khá thấp. Nên chắc chăn tôi sẽ ưu tiên cho Bạc trong danh mục đầu tư dài hạn của tôi. Tôi cũng dự đoán, số tiền mặt của lão già Warren Buffet cũng sẽ đổ vô Bạc thay vì Vàng giống như lão đã làm năm 1997




Share:

Bitcoin đang áp lực giảm mạnh khi không phá vỡ mức giá 10,000usd


Bitcoin hiện đang giảm và giao dịch tốt dưới 9.500 đô la so với đô la Mỹ. BTC có khả năng tiếp tục thấp hơn và có vẻ áp lực giảm đang nhắm mục tiêu phá vỡ dưới $ 9.100 và $ 9.000.
  • Bitcoin đang phải đối mặt với sự gia tăng áp lực bán dưới mức giá $ 9.500.
  • Giá không thể phá vỡ vùng kháng cự $ 9.540 và hiện đang giảm.
  • Có một đường xu hướng giảm giá chính hình thành với mức kháng cự gần $ 9,400 trên biểu đồ hàng giờ của cặp BTC / USD.

Giá bitcoin có thể kéo dài áp lực giảm

Sau khi giảm mạnh, giá bitcoin đã bắt đầu điều chỉnh tăng từ mức hỗ trợ $ 9.100 so với Đô la Mỹ. BTC đã xoay sở để vượt lên trên mức xử lý $ 9.000 và đã phục hồi trên mức kháng cự $ 9.300.
Có một sự bứt phá trên mức thoái lui Fib 23,6% của việc di chuyển xuống từ mức cao $ 10.000 đến mức thấp $ 9.090. Nó thậm chí đã di chuyển trên mức $ 9.500, nhưng không vượt qua mức kháng cự $ 9.540
Có vẻ như giá đã không thể phá vỡ mức thoái lui Fib 50% của việc di chuyển xuống từ mức cao $ 10.000 đến mức thấp $ 9.090. Bitcoin hiện đang giảm và giao dịch tốt dưới mức $ 9.500 và $ 9.400.
Ngoài ra còn có một đường xu hướng giảm giá chính hình thành với mức kháng cự gần $ 9,400 trên biểu đồ hàng giờ của cặp BTC / USD. Hành động giá hiện tại cho thấy rằng cặp tiền có thể tiếp tục di chuyển xuống vùng hỗ trợ $ 9.100 trong thời gian tới. .

Nếu giá phá vỡ 9000usd có thể bitcoin tiến tới mức giảm tiếp theo là 8000usd
Share:

Thông tin đầy đủ nhất về Bitcoin



TỔNG QUAN VỀ MỘT LOẠI TÀI SẢN KHÁ ĐỘC ĐÁO - BITCOIN (BTC)
Bitcoin là một tài sản độc đáo sẽ được các nhà đầu tư nắm giữ để lưu trữ giá trị của nó.
Tính duy nhất của Bitcoin không thể được nhân đôi hoặc ít nhất là chưa có. Đây là những gì làm cho nó độc đáo và có thể so sánh với một bộ sưu tập.
Bitcoin được thiết kế để tăng giá trị và tồn tại. Cho đến nay, cả hai đều đúng. Thiết kế độc đáo này bị hiểu lầm bởi những lời gièm pha của nó.
Đây sẽ là bài viết cuối cùng của tôi về Bitcoin. Khi Bitcoin đạt 10.000 đô la, nó sẽ không còn cần bất kỳ tiếng nói nào nữa. Nó sẽ nói cho chính nó. Nhưng vì chúng ta đã gần đến thời điểm mà Bitcoin trở thành một tài sản chính được tổ chức rộng rãi, tôi muốn viết một bài viết cuối cùng để truyền bá.
Nếu bạn đọc bài viết này và vẫn nghi ngờ sức mạnh bền bỉ của Bitcoin, thì ít nhất bạn sẽ thực hiện DD của mình (do siêng năng). Bạn sẽ không hối tiếc khi không mua nó vì đã không thực hiện bất kỳ nghiên cứu nào.

Lịch sử ngắn về Bitcoin

On October 31 st , 2008, Bitcoin whitepaper đã được đăng trên Internet. Nó có tiêu đề, Bitcoin: Hệ thống tiền mặt điện tử ngang hàng . Tên tác giả là Satoshi Nakamoto.
On January 3 thứ , 2009, Satoshi Nakamoto tạo khối đầu tiên, được gọi là khối nguồn gốc. Trong khối đó, ông đã đưa ra nhận xét, Thủ tướng Thời báo 03 tháng 1 năm 2009 trên bờ vực cứu trợ thứ hai cho các ngân hàng. Đó là một bài báo từ tờ London Times vào ngày đó.
Vào ngày 9 tháng 1 năm 2009, phần mềm nguồn mở Bitcoin đã được đăng trên Internet. Sau đó, vào ngày 12 tháng 1 ngày , Satoshi gửi giao dịch Bitcoin đầu tiên Hal Finney ở California. Finney là một trong những người đầu tiên sử dụng Bitcoin và góp phần tăng cường mã.
Từ năm 2009 đến cuối năm 2010, Satoshi đã gửi email cho những người đang làm việc để tăng cường phần mềm Bitcoin. Các email của anh ấy có ngữ pháp và phong cách viết giống như whitepaper Bitcoin. Ông rất chính xác và hùng hồn trong phong cách viết của mình. Ông cũng sử dụng chính tả tiếng Anh tiếng Anh. Những email này cung cấp bằng chứng rằng ông thực sự đã viết whitepaper.
Vào cuối năm 2010, Satoshi đã bàn giao mã ký gửi cho Gavin Andresen và biến mất. Anh ta biến mất và chưa bao giờ tương ứng với bất cứ ai kể từ thời điểm đó. Danh tính thực sự của anh ta chưa bao giờ được xác định, nhưng người ta nhận ra Satoshi Nakamoto là bí danh.
Sàn giao dịch Bitcoin đầu tiên ( BitcoinMarket.com ) đã niêm yết Bitcoin ở mức 1 xu vào tháng 3 năm 2010. Một năm sau, nó đã lên tới 1 đô la vào tháng 2 năm 2011. Hai năm sau đó là hơn 1.000 đô la vào năm 2013. Nó đã sụp đổ vào năm 2014, nhưng Bitcoin đã tăng lên phổ biến kể từ khi nó được phát hành vào năm 2009. Ngày nay, sự phổ biến được phản ánh bởi hơn 1 triệu máy tính khai thác Bitcoin và hơn 30 triệu tài khoản trên Coinbase.com . Ước tính có ít nhất 25 triệu người sở hữu Bitcoin trên toàn thế giới.
Giá Bitcoin luôn biến động, thường có sự gia tăng mạnh sau đó là sự cố. Đây là một lịch sử của sự biến động đó, dường như là tiêu chuẩn cho Bitcoin.
Tháng 5 năm 2010: 1 Cent
Tháng 10 năm 2010: 12,5 Cents
Tháng 2 năm 2011: $ 1
Tháng 6 năm 2011: $ 31
Tháng 12 năm 2011: $ 2
Tháng 12 năm 2012: $ 13
Tháng 4 năm 2013: $ 266
Tháng 6 năm 2013: $ 100
Tháng 11 năm 2013: $ 1,242
Tháng 3 năm 2015: $ 200
Tháng 1 năm 2017: 1.150 đô la
Tháng 12 năm 2017: $ 19,783
Tháng 2 năm 2019: $ 3,178
Tháng 6 năm 2019: $ 13,829
Tháng 7 năm 2019: $ 9.220 (tháng hiện tại)

Bitcoin là gì?

  • Nó là một loại tiền ảo dựa trên Internet được lưu trữ trên blockchain.
Lưu ý: Một khối về cơ bản là một tệp bao gồm dữ liệu. Các tệp này được truyền qua Internet đến từng nút Bitcoin. Sau đó, các khối được tập hợp bởi các nút thành một chuỗi dài gọi là blockchain.
  • Bitcoin có tám chữ số thập phân, với số tiền nhỏ nhất (.00000001) được gọi là satoshi. Một Bitcoin duy nhất bao gồm 100.000.000 satoshi.
  • Hiện tại, có khoảng 18 triệu Bitcoin trên blockchain và mức tối đa sẽ đạt 21 triệu vào năm 2140.
  • Blockchain Bitcoin có thể được coi là một sổ cái điện tử của các giao dịch Bitcoin.
Lưu ý: Bản thân blockchain là một loại cơ sở dữ liệu bao gồm các khối. Tôi thích nghĩ về nó như một tập tin bất biến lớn không ngừng tăng kích thước (cứ sau mười phút).
  • Mỗi giao dịch chuyển quyền sở hữu Bitcoin từ một hoặc nhiều địa chỉ công khai Bitcoin sang một hoặc nhiều địa chỉ công khai Bitcoin.
  • Bitcoin chỉ có thể được gửi đến một địa chỉ công khai Bitcoin. Đây là lý do tại sao Bitcoin không bao giờ rời khỏi blockchain.
  • Số dư bitcoin được hiển thị trên ví điện tử, có thể đọc blockchain.
  • Quyền sở hữu Bitcoin được chứng minh bằng cách sở hữu các khóa riêng tư đến một địa chỉ công cộng.
  • Mỗi Bitcoin đã được tạo hiện thuộc về một địa chỉ công khai cụ thể được ghi lại bởi một giao dịch Bitcoin.
  • Blockchain là một lịch sử của tất cả các giao dịch Bitcoin đã từng xảy ra.
  • Bất kỳ ai có kết nối Internet đều có thể xem và tìm kiếm blockchain này bằng cách sử dụng Blockchain Explorer.
  • Blockchain mở cửa cho công chúng (thông qua kết nối Internet) và không thuộc sở hữu hoặc kiểm soát bởi bất kỳ ai.
Satoshi gọi Bitcoin là một hệ thống tiền điện tử ngang hàng trong whitepaper của mình. Điều đó đúng ở một mức độ nhất định, nhưng có một người trung gian, đó là mạng Bitcoin (được kết nối qua Internet). Ngoài ra, tiền mặt không liên quan, nhưng tiền ảo kỹ thuật số.
Bitcoin không chuyển trực tiếp từ người này sang người khác. Thay vào đó, Bitcoin vẫn nằm trên blockchain và quyền sở hữu chuyển Bitcoin từ người sang người.
Bitcoin không sử dụng mạng ngang hàng. Nó có một cấu trúc liên kết mạng phẳng không có phân cấp. Điều này có nghĩa là không có máy chủ tập trung. Không có máy chủ tập trung, tất cả những gì cần thiết để duy trì và hoạt động của mạng Bitcoin là một số lượng nhỏ các đồng nghiệp (còn được gọi là các nút mạng Bitcoin). Miễn là Internet hoạt động, thì mạng Bitcoin sẽ hoạt động. Và không có bất kỳ đồng nghiệp nào có ảnh hưởng nhiều hơn người khác, nó tạo ra một hệ thống không tin cậy, phi tập trung, không được phép.
Ngoài mạng Bitcoin, bạn cũng cần phải có các công cụ khai thác Bitcoin để tạo Bitcoin mới và tạo các khối mới, bổ sung các giao dịch vào blockchain (sẽ giải thích sau).
Không đáng tin vì mỗi mạng ngang hàng (nút mạng) hoạt động độc lập bằng cách sử dụng một blockchain phi tập trung (không có máy chủ trung tâm). Ngoài ra, blockchain được bảo mật bằng mật mã (khóa riêng và chữ ký số được sử dụng để chứng minh quyền sở hữu), tạo mức độ tin cậy cao. Nó là không được phép bởi vì bất cứ ai cũng có thể tham gia mạng. Tất cả bạn cần là một kết nối Internet và một máy tính với các thông số kỹ thuật phần cứng cần thiết.
Lưu ý: Bitcoin không sử dụng mã hóa, theo đó nội dung bị xáo trộn và không thể đọc được. Thay vào đó, nó sử dụng mật mã. Đây là những kỹ thuật toán học chứng minh dữ liệu có liên quan. Do đó, chủ sở hữu Bitcoin nắm giữ các khóa riêng có khả năng chứng minh quyền sở hữu Bitcoin của họ. Các phím này là số rất lớn (78 chữ số) và không thể đoán được.
Bitcoin tồn tại như một mạng lưới phi tập trung chống mong manh (nghĩa là khó phá vỡ). Nó được thiết kế để tự sửa lỗi với rất ít điểm thất bại. Trên thực tế, rất khó để hạ thấp mạng Bitcoin. Kể từ năm 2009, nó đã tăng và chạy 99,98% thời gian. Nó được gọi là Honey Badger vì độ dẻo dai của nó.
Một tiêu đề tốt hơn cho whitepaper sẽ là, Bitcoin: Một hệ thống tiền ảo dựa trên Internet phi tập trung. Đó là những gì nó thực sự là. Điều làm cho Bitcoin trở nên mạnh mẽ là nó hoàn toàn phi tập trung (không có máy chủ trung tâm). Không có tổ chức Bitcoin, ngoài những người triển khai thay đổi phần mềm.
Phần mềm Bitcoin được gọi là Bitcoin Core và nhóm người cập nhật phần mềm này không bị ảnh hưởng. Cập nhật phần mềm là vai trò mà Satoshi Nakamoto ban đầu thực hiện và hiện đã được chuyển cho nhóm nhà phát triển nguồn mở Bitcoin Core. Chỉ một vài cá nhân có khả năng cập nhật phần mềm. Những cập nhật này được thực hiện bằng cách sử dụng sự đồng thuận (giải thích sau).

Điểm mạnh của Bitcoin

1) Phân cấp và không được phép.
Nó được phân cấp vì không có tổ chức Bitcoin. Không được phép vì bất kỳ ai cũng có thể cài đặt và chạy phiên bản Bitcoin hiện tại.
Có một nhóm các nhà phát triển quyết định nâng cấp nào sẽ được thêm vào, nhưng họ thực hiện điều này thông qua sự đồng thuận.
Vì phi tập trung hóa, thực tế không thể giết chết Bitcoin. Tất cả những gì bạn cần là một quốc gia để giữ cho nó hợp pháp, cộng với Internet.
2) Lưu trữ giá trị.
Bởi vì gần như tất cả số Bitcoin sẽ được tạo ra đã tồn tại (khoảng 18 triệu trên tổng số 21 triệu), nó gây áp lực lên giá. Rất ít Bitcoin được tạo ra hàng ngày (hiện chỉ có 1800). Và cứ sau bốn năm, con số được khai thác giảm đi một nửa. Vào năm 2020, chỉ 900 Bitcoin sẽ được tạo ra hàng ngày. Vào năm 2024, chỉ 450 Bitcoin sẽ được khai thác hàng ngày và cứ như vậy cho đến năm 2140.
Nếu Bitcoin tồn tại, thì chúng trở nên hiếm hơn và hiếm hơn theo thời gian. Một công dân bình thường sẽ gần như không thể sở hữu một Bitcoin. Điều này sẽ khiến Bitcoin trở thành một trong những cửa hàng giá trị tốt nhất của bất kỳ tài sản nào trên hành tinh. Tại sao? Bởi vì sự hiếm có của Bitcoin sẽ khiến họ khó giảm giá trị.
Điều đó nói rằng, cửa hàng giá trị này không được đảm bảo và chỉ trên lý thuyết. Chìa khóa sẽ là nhu cầu và cách sử dụng Bitcoin. Nhưng nếu Bitcoin được sử dụng rộng rãi, thì tỷ lệ cược ủng hộ giá cao hơn và một kho giá trị mạnh mẽ.
3) Một ngân hàng trong túi của bạn.
Khi bạn có một ví cứng Bitcoin trong túi, bạn giữ tiền của mình mà không có bất kỳ rủi ro đối tác nào. Điều này có nghĩa là bạn có một tài khoản ngân hàng trong túi của bạn. Sức mạnh của tính năng này của Bitcoin là một cuộc cách mạng. Điều này có tiềm năng thay đổi ngân hàng và tài chính như chúng ta biết.
Lưu ý: Điều này không hoàn toàn đúng. Bạn có rủi ro đối tác của nhà sản xuất ví. Mặc dù nếu bạn có hạt giống chính, thì ví có thể được tạo lại trên ví tương thích (sẽ thảo luận sau).
4) Giao dịch tiền ngang hàng không biên giới.
Với ví Bitcoin của bạn, bạn có thể gửi hoặc nhận Bitcoin từ bất kỳ ví Bitcoin nào khác trên thế giới. Điều này xảy ra mà không có bất kỳ đối tác nào khác ngoài mạng Bitcoin. Không có sự cho phép cần thiết cho các giao dịch này và chúng có thể xảy ra 24/7. Tất cả những gì cần thiết là giao dịch được xác nhận bởi Mạng Bitcoin, qua đó cập nhật blockchain.
5) Động lực đầu tiên.
Bitcoin là tiền điện tử đầu tiên. Mạng Bitcoin đã hoạt động và hoạt động từ năm 2009 và có thời gian hoạt động là 99,98%. Nó đã được chứng minh là đáng tin cậy. Bằng cách là người đầu tiên, Bitcoin đã trở nên cố thủ. Sẽ rất khó khăn cho một loại tiền điện tử khác để giải phóng Bitcoin với tư cách là người dẫn đầu.
6) Mạng lưới nhà phát triển lớn.
Mạng lưới nhà phát triển Bitcoin là nhóm các nhà phát triển tiền điện tử lớn nhất. Có hàng ngàn người đang làm việc để cải thiện phần mềm Bitcoin, đặc biệt là các giải pháp lớp thứ hai. Bộ não này đảm bảo Bitcoin trong tương lai.
7) An toàn, đáng tin cậy, không thay đổi.
Bitcoin chưa bao giờ bị hack và có khả năng sẽ không xảy ra. Vụ hack duy nhất đã xảy ra là khi ai đó có được quyền truy cập vào khóa riêng của Bitcoin. Các loại hack này sẽ tiếp tục, nhưng miễn là khóa riêng của bạn được bảo mật, thì Bitcoin của bạn cũng cần được bảo mật.
Điều làm cho Bitcoin an toàn và đáng tin cậy là mật mã. Trọng tâm của bảo mật của Bitcoin là mật mã được thiết kế bởi NSA (Cơ quan an ninh quốc gia).
Blockchain không thể được sửa đổi. Khi một khối được tạo, khối đó là bất biến. Đây là một trong những lý do cho độ tin cậy của Bitcoin.
8) Chống mong manh và không tin cậy.
Bitcoin được coi là phần mềm chống mong manh. Điều này có nghĩa là nó tự sửa và rất khó để đưa xuống. Chẳng hạn, các dĩa tự động giải quyết thông qua sự đồng thuận và khó khăn khai thác sẽ tự động điều chỉnh sau mỗi hai tuần. Đây là lý do nó có thời gian tăng cao tới 99,98% trong mười năm.
Nhiều nhân vật phản diện đã cố gắng phá vỡ mạng Bitcoin và một số đã thành công trong việc lấp đầy nhóm giao dịch, do đó làm tăng phí giao dịch. Tuy nhiên, Bitcoin được thiết kế để thích ứng với các cuộc tấn công.
Tất cả những gì bạn cần làm là đọc cách Bitcoin đã vượt qua các cuộc tấn công trong quá khứ để xem khả năng phục hồi của nó như thế nào và tại sao nó lại có được sự khác biệt khi được gọi là chống mong manh.
Vì Bitcoin được phân cấp và chống mong manh, nên nó có thể được coi là không đáng tin cậy. Bạn không cần phải dựa vào bất cứ ai để sử dụng nó. Chừng nào Internet còn hoạt động và sự đồng thuận hoạt động, thì không có ai để tin tưởng.
9) Đồng thuận thúc đẩy.
Cả việc tạo ra các khối mới và nâng cấp phần mềm đều được xử lý thông qua sự đồng thuận (giải thích sau). Việc nâng cấp phần mềm có thể trở nên lộn xộn vào các thời điểm và yêu cầu các khung thời gian dài hơn để thực hiện các thay đổi, nhưng kết quả cuối cùng thường là tích cực đối với Bitcoin.
Một điểm mạnh của sự đồng thuận là nó ngăn chặn một nhóm lợi ích mạnh mẽ sửa đổi Bitcoin. Không có sự đồng thuận của các nút và người khai thác, gần như không thể thực hiện các thay đổi. Thay vào đó, bạn kết thúc với một hard fork và altcoin (giải thích sau).
10) Không có rủi ro đối tác
Việc thiếu rủi ro đối tác có lẽ là điều khiến Bitcoin trở nên có giá trị. Xem xét tài khoản ngân hàng, tài khoản môi giới trực tuyến hoặc bất kỳ dữ liệu nào bạn có trên Internet. Thông tin đó có giá trị như thế nào? Tuy nhiên, nó phụ thuộc vào bên thứ ba. Ngân hàng của bạn có thể đóng cửa qua đêm, nhà môi giới trực tuyến của bạn có thể ngoại tuyến.
Với Bitcoin không có đối tác. Khóa riêng của bạn là tất cả những gì bạn cần để đảm bảo tiền của bạn. Đó là lý do tại sao Bitcoin sẽ rất có giá trị. Tính năng này bị mất trên tất cả các nhân vật phản diện chống Bitcoin.
Một lợi ích khác của Bitcoin là nó không cần phải được mã hóa khi được truyền qua Internet. Bởi vì Bitcoin là một sổ cái công khai, không có gì cần phải giữ riêng tư. Điều này có nghĩa là blockchain và giao dịch có thể đi khắp Internet mà không bị mã hóa. Điều này có vẻ như là một lợi ích nhỏ, nhưng chúng ta đang nói về việc chuyển tiền.
Hầu hết các giao dịch tiền trên Internet, như chuyển khoản ngân hàng và giao dịch thẻ tín dụng, được mã hóa và bảo vệ. Vì Bitcoin dựa vào các khóa riêng để xác thực, nên nó có thể di chuyển trên Internet dưới dạng văn bản. Bất kỳ hacker nào cũng có thể lấy nó, nhưng không có gì họ có thể làm với nó trừ khi họ sở hữu các khóa riêng.
11) Độc đáo.
Điều làm cho Bitcoin trở nên độc đáo là nguồn gốc của nó. Không có loại tiền điện tử nào khác có thể nhân đôi cách Bitcoin ra đời và khả năng độc đáo của nó là sống một cách hữu cơ mà không cần một tổ chức bao quanh nó. Sự độc đáo này là những gì mang lại cho nó giá trị. Bất cứ ai cũng có thể tạo ra một loại tiền tệ giao dịch kỹ thuật số, nhưng hãy cố gắng tạo ra một loại tiền sống hữu cơ! Hãy tiếp tục và cố gắng. Việc Bitcoin sống sót là một phép lạ.
Sự độc đáo này bị hiểu lầm bởi những lời gièm pha của nó. Họ không nhận ra rằng Bitcoin về cơ bản là một bộ sưu tập. Nó giống như một bức tranh kiệt tác độc đáo, và một khi bạn sở hữu nó, tất cả những gì nó làm tăng giá trị của tôi. Đó là tài sản cuối cùng. Cuối cùng, các ngân hàng trung ương sẽ đưa nó lên bảng cân đối kế toán của họ như một tài sản. Không quá nhiều vì nó là một loại tiền tệ, nhưng vì nó là một tài sản, giống như vàng.
Nhiều người gièm pha Bitcoin là những con bọ vàng, họ nói rằng vàng là hữu hình, nhưng Bitcoin được tạo ra từ không khí mỏng. Những gì họ không nhận được là Bitcoin cũng hữu hình. Khi bạn có Bitcoin trong Trekey, Bitcoin là hữu hình. Nó đã được thu thập, giống như vàng đã được thu thập. Cả hai đều được khai thác. Cả hai năng lượng cần thiết để được tạo thành một hình thức thu. Thật thú vị khi các nhà đầu tư vàng và Bitcoin sử dụng cùng một thuật ngữ: cả hai đều tự gọi mình là người xếp chồng.

Điểm yếu của Bitcoin

1) Tấn công thư rác.
Tấn công DDOS (Từ chối dịch vụ). Đó là khi các nút Bitcoin (máy tính trên mạng Bitcoin) hoạt động một cách bất chính để phá hoại mạng Bitcoin. Chúng cơ bản là kẻ thù của Bitcoin, những người đang cố gắng tạo ra sự tàn phá.
Một loại tấn công DDOS chỉ đơn giản là thực hiện các yêu cầu không ngừng đến một nút Bitcoin và buộc nó phải đáp ứng. Chẳng hạn, một cách để làm điều này là tạo ra các giao dịch giả sẽ không được xác thực. Tuy nhiên, Bitcoin đã trở nên tốt hơn trong việc chống lại các loại tấn công này.
Một loại tấn công DDOS khác được gọi là tấn công Bụi. Chúng được gọi là bụi vì chúng là những giao dịch rất nhỏ. Khi bạn gửi hàng ngàn giao dịch riêng lẻ với mức phí rất thấp, chúng có thể tràn ngập mạng Bitcoin và nhóm giao dịch.
Lưu ý: Để có được một giao dịch vào nhóm giao dịch, nó yêu cầu người gửi phải trả phí. Do đó, các kiểu tấn công DDOS này thường tồn tại trong thời gian ngắn vì chúng tốn tiền. Ngoài ra, vì các loại tấn công DDOS này đã thất bại trong quá khứ, chúng tôi đã bắt đầu thấy ít hơn trong số chúng.
2) Tấn công Sybil.
Đây là khi các nút Bitcoin giả vờ là một nút hợp pháp trên mạng Bitcoin, nhưng thực tế là một kẻ thù bất chính. Các nút giả mạo (còn gọi là Sybil) cố gắng gây ra sự tàn phá bằng cách không xác nhận giao dịch hoặc không chuyển tiếp giao dịch.
Giống như thư rác, các cuộc tấn công Sybil tốn tiền (ai đó phải mua phần cứng và trả tiền điện). Vì lý do này, các cuộc tấn công Sybil có xu hướng xảy ra và thường không kéo dài trong một thời gian dài. Ngoài ra, Bitcoin đã tạo ra nhiều biện pháp đối phó. Hiện tại có khoảng 25 biện pháp đối phó được áp dụng để ngăn chặn các cuộc tấn công spam và Sybil.
3) Chi tiêu gấp đôi.
Điều này có thể xảy ra nếu một công cụ khai thác đơn (hoặc nhóm thợ mỏ) có được 51% công suất băm của mạng. Điều này khó có thể xảy ra với số lượng lớn người khai thác của Bitcoin.
Không có 51% sức mạnh băm của mạng, chi tiêu gấp đôi được ngăn chặn bằng cách sử dụng các giao dịch không thể đảo ngược và bằng quy trình xác minh giao dịch Bitcoin và chặn. Mỗi khối mới xác nhận rằng cùng một Bitcoin không được chi tiêu gấp đôi.
Hãy sử dụng một ví dụ. Giả sử bạn có 10 đô la trong ví Bitcoin và cố gắng chi 6 đô la cho một giao dịch và 5 đô la cho một giao dịch khác. Trong ví dụ này, cả hai giao dịch sẽ cố gắng sử dụng cùng một đầu vào. Trong quá trình xác minh nút mạng, giao dịch chỉ được xác minh nếu có đủ đầu vào để chuyển sang đầu ra (tham khảo Phụ lục). Điều này ngăn chặn chi tiêu gấp đôi. Vì vậy, trong ví dụ này, chỉ giao dịch đầu tiên mới được xác minh và thêm vào nhóm giao dịch.
4) Tấn công 51%.
Nếu kẻ tấn công (một người khai thác hoặc một nhóm người khai thác) kiểm soát 51% sức mạnh băm của mạng Bitcoin, họ có thể làm suy yếu hiệu quả bảo mật của blockchain. Họ có thể chi tiêu gấp đôi, đảo ngược giao dịch và thậm chí tắt mạng bằng cách ngăn chặn xác nhận.
Cơ hội của một người khai thác duy nhất kiểm soát 51% sức mạnh băm Bitcoin là không thể. Đầu tiên, ai đó sẽ phải đầu tư hàng tỷ đô la để có được sức mạnh băm lớn đó. Thứ hai, tại sao ai đó sẽ đầu tư số tiền lớn đó chỉ để làm suy yếu Bitcoin và phá hủy giá trị của nó? Một chính phủ có lẽ, hoặc có thể là đối thủ cạnh tranh, nhưng nó không có khả năng xảy ra.
Lưu ý: Trên thực tế, một cuộc tấn công 51% có thể thành công với ít nhất 30% sức mạnh băm của Bitcoin. Một cuộc tấn công 51% sẽ luôn thành công, nhưng cuộc tấn công 30% (hoặc nhiều hơn) có khả năng gây hại và là mối đe dọa đối với an ninh của Bitcoin.
5) Tính hợp pháp.
Đây có lẽ là rủi ro lớn nhất đối với những người nắm giữ Bitcoin. Điều gì xảy ra nếu bạn giữ Bitcoin và đất nước của bạn biến Bitcoin thành bất hợp pháp? Hoặc tệ hơn nữa, không chỉ làm cho nó bất hợp pháp, mà còn yêu cầu bạn cung cấp cho họ! Đây là một khả năng rất thực tế. Vào những năm 1930, chính phủ Hoa Kỳ yêu cầu mọi người đổi vàng thỏi của họ với một mức giá định sẵn, và sau đó biến nó thành bất hợp pháp để sở hữu. Bất kỳ chính phủ nào cũng có thể làm điều tương tự cho Bitcoin. Nó sẽ là một mớ hỗn độn, và họ sẽ biến nhiều công dân tuân thủ luật pháp của họ thành tội phạm, nhưng điều đó là có thể.
6) Virus phần mềm.
Điều này chưa bao giờ xảy ra với Bitcoin, nhưng không có phần mềm nào miễn nhiễm với các cuộc tấn công của virus. Tại một số điểm, Bitcoin sẽ phải chống lại một cuộc tấn công virus nào đó.
7) Cạnh tranh.
Nhiều người đã đưa ra lập luận rằng Bitcoin không phải là loại tiền điện tử tốt nhất. Cá nhân tôi nghĩ rằng mã Bitcoin là thanh lịch và được xây dựng để tồn tại, nhưng điều đó có thể không đúng. Luôn có khả năng một loại tiền điện tử tốt hơn xuất hiện để vượt qua Bitcoin.
8) Quyết định xấu.
Tôi đã luôn nói rằng mối đe dọa lớn nhất đối với Bitcoin là Bitcoin. Ý tôi là nếu sự đồng thuận cho cải tiến phần mềm dẫn đến những quyết định tồi tệ thì Bitcoin sẽ tự làm suy yếu chính nó. Ngược lại, miễn là sự đồng thuận dẫn đến các quyết định tốt, thì Bitcoin sẽ phát triển mạnh.
9) Sự phụ thuộc vào Internet.
Trừ khi Internet đang chạy, Bitcoin không thể hoạt động. Hiện tại, có một mạng vệ tinh Bitcoin dự phòng có thể được sử dụng để đảm bảo rằng mạng Bitcoin không bị sập. Tuy nhiên, có bao nhiêu người sẽ có quyền truy cập vào mạng này nếu Internet cục bộ của họ bị sập?
Nếu Bitcoin trở nên cố thủ hơn, tôi sẽ mong muốn mạng lưới vệ tinh Bitcoin sẽ mở rộng và trở thành một hệ thống sao lưu tốt hơn. Tuy nhiên, làm thế nào Bitcoin có thể hoạt động mà không có Internet trên đất liền hiện tại có vẻ có vấn đề.
10) Máy tính lượng tử.
Có lẽ mối đe dọa lớn nhất đối với Bitcoin là máy tính lượng tử. Google gần đây đã phát minh ra một máy tính lượng tử 53 khối tạo ra các tính toán với tốc độ đáng kinh ngạc. Về lý thuyết, nếu các máy tính lượng tử này tiếp tục tăng tốc độ, chúng có thể hack Bitcoin. Tin tốt là Bitcoin có thể thực hiện các sửa đổi để ngăn chặn máy tính lượng tử trở thành mối đe dọa.
11) Thuế.
Thuế lãi vốn là một nỗi đau để theo dõi các giao dịch Bitcoin. Đây là một rào cản để khiến mọi người sử dụng Bitcoin để mua hàng. Tại Mỹ, mọi giao dịch Bitcoin đều được coi là một sự kiện chịu thuế đối với việc tăng vốn.
Bạn có nhận thấy rằng tôi không bao gồm khả năng sao chép Bitcoin như một điểm yếu? Nhiều người gièm pha nghĩ rằng bất cứ ai cũng có thể sao chép Bitcoin bằng cách sử dụng một ngã ba hoặc sử dụng mã nguồn của nó. Đây là cá trích đỏ. Không ai có thể sao chép Bitcoin ở dạng hiện tại của nó, thay vào đó, những gì chúng ta có là rất nhiều người đặt ra. Không ai có thể yêu cầu sự độc đáo tương tự của Bitcoin.

Phần mềm mã nguồn mở Bitcoin

Phần mềm Bitcoin có thể được tải xuống bởi bất kỳ ai có quyền truy cập Internet. Nó được viết bằng ngôn ngữ lập trình C ++. Thật đáng ngạc nhiên, bản phát hành Bitcoin ban đầu chỉ có 70.000 dòng mã. Để so sánh, hầu hết các ứng dụng phần mềm, như MS Word, có hàng triệu dòng mã.
Việc nâng cấp phần mềm Bitcoin được gọi là BIP (Đề xuất cải tiến Bitcoin). Đây là những tài liệu công khai đề xuất thay đổi đối với phần mềm Bitcoin. Kể từ khi Bitcoin đi vào hoạt động, đã có khoảng 100 BIP được thêm vào Bitcoin. Đó là trung bình của khoảng mười cải tiến mỗi năm.
Khi một người nào đó đề xuất BIP bằng cách sử dụng một tài liệu nháp, thì nó sẽ được các nhà phát triển đánh giá ngang hàng. Trong quá trình đánh giá ngang hàng, họ sử dụng một thứ gọi là đồng thuận thô. Điều này có nghĩa là họ không sử dụng ngưỡng bỏ phiếu. Thay vào đó, họ cố gắng xác định bất kỳ vấn đề nào ngăn cản sự đồng thuận. Nếu gần như tất cả mọi người đồng ý rằng đó là một cải tiến tốt, thì nó được chấp nhận.
Sau khi đánh giá ngang hàng, dự thảo được chấp nhận hoặc từ chối. Nếu nó được chấp nhận, thì bây giờ là lúc để những người khai thác bỏ phiếu. Tại thời điểm này, trạng thái của BIP được thay đổi từ dự thảo sang đề xuất và những người khai thác có thể bắt đầu bỏ phiếu. Nếu những người khai thác phê duyệt nó, trạng thái sẽ được thay đổi thành cuối cùng và được sáp nhập vào phần mềm Bitcoin.
Lưu ý: Hiện tại, một người có vai trò biên tập BIP. Họ chịu trách nhiệm thay đổi trạng thái của BIP. Tôi sẽ tưởng tượng rằng họ có được ý kiến ​​của bạn bè nếu đạt được sự đồng thuận thô bạo.
Một BIP được thêm vào phần mềm Bitcoin khi nó có hỗ trợ 95% từ những người khai thác đã khai thác 2.016 khối cuối cùng. Trung bình, 144 khối mới được tạo ra mỗi ngày. Vì vậy, 2.016 khối thường là 14 ngày. Thợ mỏ bỏ phiếu bằng một cái gì đó gọi là tín hiệu. Họ làm điều này bằng cách đưa thông tin báo hiệu vào các khối mà họ tạo ra (Tham khảo BIP-34 và BIP-9 để biết cách thức hoạt động của nó).
Lưu ý: Một số BIP không yêu cầu hỗ trợ 95%. Tôi không thể tìm thấy bất kỳ thông tin nào tại sao có trường hợp ngoại lệ, nhưng tôi đã tìm thấy một số BIP yêu cầu ít hơn 95%.
Lưu ý: Nhiều BIP không yêu cầu báo hiệu. Thay vào đó, BIP được thêm vào phần mềm và tín hiệu chỉ đơn giản là khi họ cài đặt phiên bản mới. Tôi đã cố gắng để có thêm thông tin về cách BIP được phê duyệt và nhận được thông tin này từ Luke Dashjr, biên tập viên BIP hiện tại:
Không có sự đồng thuận là cần thiết cho hầu hết các BIP. Tác giả chỉ cần có kế hoạch để tiến tới giai đoạn cuối.
Thông thường, nếu những người khai thác phê duyệt BIP, thì BIP sẽ được thêm vào phần mềm Bitcoin và các nút và người khai thác nâng cấp phần mềm của họ lên phiên bản mới. Tuy nhiên, đó không phải là điều luôn xảy ra. Tại sao? Bởi vì các nút chạy trên mạng Bitcoin không thể bỏ phiếu, nhưng họ phải quyết định cài đặt phiên bản Bitcoin nào. Trong những năm qua, đã có một vài cuộc nổi loạn về việc cài đặt một phiên bản mới, và nó có thể sẽ xảy ra một lần nữa.
Nâng cấp phần mềm BIP có thể tạo ra dĩa mềm và dĩa cứng. Điều này sẽ được giải thích sau.

Ai sửa đổi phần mềm Bitcoin?

Về cơ bản có hai loại lập trình viên phần mềm Bitcoin (còn được gọi là nhà phát triển hoặc người đóng góp), những người được trả tiền và những người tình nguyện. Vì có một số tiền lớn được tạo ra trong khai thác Bitcoin hoặc thương mại Bitcoin, nên có những công ty sẽ trả tiền cho mọi người để cải tiến mã cho Bitcoin. Trên thực tế, có rất nhiều nhà phát triển Bitcoin được trả lương cao và tôi hy vọng điều này sẽ tiếp tục. Ban đầu, tất cả các nhà phát triển Bitcoin đều là tình nguyện viên.
Vì Bitcoin là phần mềm nguồn mở, bất kỳ ai cũng có thể đề xuất BIP và được phê duyệt. Đó là sức mạnh của Bitcoin. Mạng lưới nhà phát triển Bitcoin rất lớn, với hàng ngàn người làm việc về cải tiến Bitcoin.
Blockchain là gì?
Blockchain có lẽ là phần quan trọng nhất của Bitcoin để hiểu, bởi vì đó là nơi Bitcoin được lưu trữ. Blockchain hiện bao gồm hơn 550.000 khối. Nó phát triển bằng cách thêm khối mới khoảng mười phút một lần. Mỗi ngày có khoảng 144 (6 mỗi giờ x 24) khối mới được thêm vào. Tôi nói khoảng, bởi vì việc tạo khối được xác định bằng cách khai thác, có thể có sự thay đổi.
Khối đầu tiên được tạo ra vào tháng 1 năm 2009 và vì thực tế, mạng Bitcoin chưa bao giờ ngừng hoạt động, trung bình cứ mười phút lại có một khối mới được tạo ra.
Dưới đây là một số đặc điểm của blockchain:
1) Mỗi ​​khối chứa một nhóm các giao dịch, được xác nhận bởi các nút và công cụ khai thác mạng (sẽ giải thích sau).
2) Số lượng giao dịch trong mỗi khối khác nhau, nhưng nó thường chứa khoảng 1.000 đến 3.000 giao dịch.
3) Khi một khối được tạo, các giao dịch trong khối đó không thể được đảo ngược hoặc sửa đổi (tính bất biến). Trong thực tế, không có phần nào của thông tin khối có thể thay đổi.
4) Mỗi ​​khối chứa một con trỏ đến khối trước đó. Đây là lý do tại sao nó được gọi là blockchain. Về cơ bản, các khối được liên kết với nhau thành một chuỗi dài, với khối genesis ở đầu và khối được khai thác gần đây nhất ở cuối.
5) Blockchain Bitcoin là một sổ cái công khai bao gồm tất cả các giao dịch Bitcoin đã từng xảy ra.
6) Toàn bộ blockchain hiện có kích thước khoảng 220 GB, nhưng không ngừng tăng kích thước.
7) Một khối mới được tạo thông qua khai thác khoảng mười phút một lần. Điều này có nghĩa là khoảng 144 khối được tạo ra mỗi ngày.
8) Blockchain có thể được tìm kiếm bởi Blockchain Explorer. Đây là có sẵn miễn phí trên nhiều trang web.
9) Blockchain được phân cấp và không tồn tại ở một vị trí, nhưng ở nhiều vị trí cùng một lúc. Trên thực tế, mọi nút đầy đủ đều có một bản sao của blockchain, không ngừng tăng kích thước khi các khối mới được thêm vào.
10) Điều quyết định blockchain hiện tại là thứ có nhiều bằng chứng hoạt động nhất. Đây có thể là blockchain có nhiều khối nhất, nhưng không nhất thiết phải như vậy. Thay vào đó, bạn phải tính tổng độ khó của blockchain (giải thích sau). Tổng khó khăn là bằng chứng công việc của blockchain.

Điều gì làm cho Bitcoin an toàn?

Bitcoin được bảo mật bằng mật mã. Đây là lý do tại sao Bitcoin được gọi là tiền điện tử. Điểm khởi đầu của Bitcoin là một khóa riêng, là một số rất lớn (78 chữ số). Khóa riêng có thể được tạo ngẫu nhiên theo nhiều cách khác nhau, nhưng thường được tạo một cách xác định từ khóa riêng (giải thích sau).
Mỗi giao dịch Bitcoin liên kết Bitcoin với một khóa riêng. Chẳng hạn, nếu bạn nhận được Bitcoin, nó sẽ được liên kết với khóa riêng. Miễn là bạn giữ quyền sở hữu khóa riêng đó, thì bạn sẽ sở hữu Bitcoin đó. Tuy nhiên, nếu ai đó có được khóa riêng đó, họ có thể chi tiêu Bitcoin của bạn hoặc chuyển nó sang khóa riêng khác.
Như tôi đã nói trước đó, khóa riêng là điểm khởi đầu để bảo mật Bitcoin. Từ khóa riêng, một khóa chung (giải thích sau) được tạo. Khóa này sẽ liên quan về mặt toán học với khóa riêng. Tiếp theo, một chữ ký số (giải thích sau) được tạo ra, cũng sẽ liên quan đến toán học. Sự kết hợp của ba giá trị này là những gì đảm bảo Bitcoin. Như bạn có thể thấy, mọi thứ bắt nguồn từ khóa riêng.

Băm

Một tính năng khác đảm bảo Bitcoin là băm. Băm từ có nghĩa là băm nhỏ, đó là những gì thuật toán băm thực hiện. Họ lấy một dữ liệu đầu vào (một dòng các chữ cái và số), sau đó cắt nó ra để tạo ra một đầu ra. Cách băm hoạt động là cùng một đầu vào luôn tạo ra cùng một đầu ra. Tuy nhiên, đầu ra không thể được chuyển đổi trở lại thành đầu vào. Vì vậy, cách duy nhất để tái tạo đầu ra là biết đầu vào.
Thuật toán băm chính được sử dụng bởi Bitcoin được gọi là SHA-256. Đây là chức năng chuyển đổi giá trị đầu vào thành giá trị thập lục phân 64 ký tự. Hexa có nghĩa là sáu. Điều này có nghĩa là giá trị đầu ra bao gồm các chữ số 0-9 và sáu chữ cái đầu tiên của bảng chữ cái (ae). Giá trị thập lục phân 64 ký tự này còn được gọi là giá trị băm, khóa băm hoặc hàm băm.
Hàm SHA-256 là an toàn vì chưa ai có thể đảo ngược giá trị đầu vào từ giá trị đầu ra băm. Ngoài ra, thực tế không thể đoán được giá trị băm. Đó là mật khẩu 64 ký tự. Số lần đoán cần thiết là một số có 78 chữ số. Nó sẽ mất máy tính nhanh nhất hàng ngàn năm để đoán bằng cách sử dụng vũ lực.
Giá trị băm là một thành phần chính của Bitcoin, bởi vì đó là cách các khối mới được thêm vào và cách giao dịch được bảo mật. Mỗi khối có giá trị băm riêng (ID khối), mỗi giao dịch có giá trị băm riêng (ID giao dịch) và mỗi địa chỉ công khai có giá trị băm riêng.
Băm cũng là cách Bitcoin mới được tạo ra. Để tạo ra Bitcoin mới, một máy tính phải giải một bài toán và quá trình giải bài toán này là băm. Quá trình băm được thực hiện bằng cách thực hiện hàng nghìn tỷ lần đoán. Về cơ bản, các công cụ khai thác Bitcoin tạo ra hàng nghìn tỷ lần đoán bằng cách sử dụng hàm băm SHA-256 cho đến khi họ đoán được câu trả lời (giải thích sau).

Khối Bitcoin là gì?

Một khối chứa một tiêu đề duy nhất và nhiều giao dịch (thường là 1.500 đến 3.000). Nếu có sáu khối được tạo trong một giờ qua, thì khoảng 12.000 giao dịch đã được thêm vào blockchain. Tuy nhiên, điều này có thể gây hiểu nhầm khi Lightning Network được sử dụng (giải thích sau).
Tiêu đề chứa sáu giá trị sau:
1) Số phiên bản : Phiên bản khối hiện tại. Điều này xác định các quy tắc xác thực khối đã được sử dụng để tạo khối này.
2) Khối trước : Mã định danh của khối trước, còn được gọi là khóa băm hoặc hàm băm. Khóa băm của khối là một giá trị thập lục phân 64 ký tự.
3) Merkle Root : Còn được gọi là khóa băm gốc Merkle. Đây là hàm băm tổng hợp của tất cả các khóa băm giao dịch trong khối. Điều này được sử dụng để xác thực các giao dịch trong một khối và bởi các thợ mỏ để đoán khóa băm của khối tiếp theo.
4) Dấu thời gian : Dấu thời gian UTC khi khối được tạo.
5) Độ khó : Con số này là khó khăn trong việc tạo khối tiếp theo so với khó khăn khi khai thác khối đầu tiên vào năm 2009. Hiện tại, việc khai thác một khối so với khai thác khối đầu tiên khó hơn khoảng 7 nghìn tỷ lần.
Khó khăn được sử dụng để xác định mức độ băm cần thiết để tạo khối tiếp theo trong mười phút. Nó dựa trên tốc độ băm của mạng khai thác Bitcoin, hiện tại là khoảng 65 triệu terahash (1 nghìn tỷ đồng) mỗi giây. Khó khăn tự động điều chỉnh cứ sau hai tuần.
Độ khó được tăng lên bằng cách thêm một số 0 khác vào mục tiêu (giải thích sau), giúp tăng gấp đôi độ khó một cách hiệu quả. Hiện tại, có khoảng 18 số không hàng đầu trong mục tiêu. Số thập lục phân 64 ký tự (khối ID) của khối tiếp theo phải thấp hơn hoặc bằng mục tiêu.
Khó khăn là một con số được sử dụng để tính toán mục tiêu (còn được gọi là Bits trong biệt ngữ Bitcoin) để giải quyết vấn đề băm để tạo khối tiếp theo.
6) Nonce : Đây là nonce được sử dụng để tạo khối. Số nonce là một số nguyên, nhưng nó có thể rất lớn (32 bit, hoặc tối đa là 4,3 tỷ). Để hiểu về nonce, bạn phải hiểu cách khai thác Bitcoin (giải thích sau).

Phần kết luận

Nếu bạn muốn đọc toàn bộ bài viết tham khảo liên kết này Tôi không biết liệu tôi có đúng rằng Bitcoin là một thứ có thể sưu tập được không và anh ta có những đặc điểm độc đáo. Tôi nghĩ rằng nó làm và nó sẽ bùng nổ về giá trị. Nhưng đó chỉ là ý kiến ​​của tôi sau khi theo dõi nó trong một vài năm và thực hiện một lượng nghiên cứu đáng kể.
Tôi nghĩ rằng những người tối đa hóa Bitcoin có một điểm tốt, rằng Bitcoin là loại tiền điện tử duy nhất có giá trị lâu dài. Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng tất cả các loại tiền điện tử khác ngoài Bitcoin đều là ứng dụng phần mềm và sẽ tăng giảm dựa trên trường hợp sử dụng mà họ cung cấp. Tôi nghĩ rằng nhiều người trong số họ sẽ làm rất tốt, và một số sẽ hoạt động thậm chí còn tốt hơn Bitcoin. Tuy nhiên, không ai trong số họ sẽ có những đặc điểm có thể thu thập được của Bitcoin và không ai trong số họ từng có.
Thật đáng kinh ngạc, Bitcoin không phải là một ứng dụng phần mềm hay tiền tệ giao dịch, mặc dù nó cung cấp các chức năng đó. Bitcoin là một bộ sưu tập, và đó là lý do tại sao nó có giá trị. Ai sẽ muốn thu thập nó? Bất cứ ai có thể mua nó - giống như vàng.
Share:

Popular Items

Nhãn

Recent Posts